Chủ Nhật, 25 tháng 4, 2010

Nghe tiếng chim hót

(Entry này tặng cho Trung_cadan và chú chim hay hót)

Thật tình thì tôi cũng chả mặn mà gì với tiếng hót của chim , cũng chả thích nghe chim hót là mấy , thời xa xưa , thú vui của tôi là dùng ná cao su để bắn chim , nói chung tôi chỉ thích ăn thịt chim , chứ không thích chơi chim và đặc biệt không thích nghe tiếng chim hót . Ngày xưa – khi bắn trúng một con chim , thấy sướng ghê hồn , nhổ lông , mổ bụng , thêm vào miếng tỏi , hành tiêu , tí xíu bột ngọt , vài hạt muối …và bỏ lên lò lửa đỏ hồng , mùi thơm bốc lên , và …nhín nhín cắn từng miếng một , ngọt lịm . bậy giờ kể lại thấy vẫn còn …chảy nước miếng

À mà tự dưng bữa nay sao lại mình lại nói về chim nhỉ ?

Chuyện là thế này , mấy ngày nay , , topic Cúp Phương Trang cực “hot” , mọi ngừơi đều tập trung vào xem diễn biến của giải , mọi người nhào vô vừa xem , vừa bình luận , xen cả …chửi nhau nữa …

Nhưng có 1 người không bình , không chửi nhau nhưng cứ “cảm ơn” liên tục .
Hay cũng cảm ơn , dở cũng cảm ơn , người ta chửi nhau cũng cảm ơn , đó là anh chàng có nickname “Nghe tiếng chim hót “ , một cái nick nghe rất lạ tai .

Ban đầu cũng chả ai để ý , anh ấy ấy muốn hót thì cứ việc hót , nhưng hót mãi thì mọi ngườii cũng cảm thấy chột dạ . Tất nhiên tôi cũng thấy nhột nhột , Trung_cadan cũgn nhột nhột , tôi cũng hơi thấy hơi kỳ kỳ , trung_cadan bực mình vì số lần “cảm ơn” lên đến trên 7000 lân , phá mọi kỷ lục về số lần “cảm ơn “
Tôi không muốn bắn chim như ngày xưa , nhưng Trung thì không chịu nổi tiếng chim … và chim đã chết

Vài giờ sau lại có nick “Nghe tiếng chim hót tiếp “ ra đời , và lại “cảm ơn “ và lại chết , tôi thấy rất thương cho chim (!)

À , “nghe tiếng chim hót tiếp “ ngưng tiếng hót thì lại có “Nghe tiếp tiếng chim hót” và lại “cảm ơn “ , hay cũng cảm ơn , dở cũng cảm ơn , chửi nhau cũng “cảm ơn “ , lúc này tôi ôm bụng cười rũ rượi cho chú chim này , và con chim hay hót đấy đã trở thành “những con chim ẩn mình chờ chết “ – cuối cũng nó đã trung tiếp mũi tên từ thợ săn chim Trung _cadan . Gà H1R5 khi xưa bắn chim khá thiện nghệ nhưng giờ sắp lên chùa đi tu nên không sát sanh nữa .

Sau khi 3 chú chim đã ẩn mình chờ chết , bây giờ thì lại có “Nghe chim hót” và lại cảm ơn …….

Cảm khái tiếng chim hót chợt nhớ tới bài hát của Phạm Thế Mỹ



”Em nghe gì không hỡi em
Con chim nó hót vang đầu hè
Em thấy gì không hỡi em
Con chim nó múa trên cành tre

Hót đi chim, hót đi chim
Hót cho mặt trời hồng quê ta
Hót đi chim, hót đi chim
Hót cho đời nhọc nhằn trôi xa

Chim trên đồng chim trên non
Chim tung cánh xóa tan sương mù
Chim trong hồn chim trong tim
Ôi thương quá tiếng chim việt Nam



Hót đi chim, hót đi chim
Hót cho mặt trời hồng quê ta
Hót đi chim, hót đi chim
Hót cho đời nhọc nhằn trôi xa ………..”

Và tôi thề sẽ sẽ không bắn chim nữa cho dù tôi không ưa tiếng chim hót …. và rất thích ăn thịt chim .

Chủ Nhật, 18 tháng 4, 2010

Điên ......nặng

Hiểu như thế nào nhỉ ? tất nhiên là không phải tôi bị điên nặng ( nếu có điên thì cũng điên chút chút thôi ) . Điên nặng điện đó , ý tôi đang nói về cái chuyện cúp điện triền miên ở quê mình đó mà .
Ở nơi sản xuất ra điện , thế nhưng giờ đấy 1 ngày có điện , 1 ngày cúp từ sáng tinh mơ tới tận 22 h , vị chi phải sống trong thầm lặng 17 tiếng .
Hôm nay , một ngày chủ nhật không điên ...nặng ấy , kéo theo không TV- không bóng đá - không lang thang trên diễn đàn , không chát chít ..và không nhiều thứ khác , sáng lăng quăng làm vài việc mà không cần tới điện . Chiều thơ thẩn , vác máy hình lang thang , làm ...
một phóng sự ảnh
Hồ Đa nhim chụp từ khoáng cách 4 km , đây là công trình
 thủy điện từ những năm 60 do Nhật bồi thường chiến tranh


Và đây là chân đập , dười chân đập là cánh đồng khóm III
 , nới đây người ta trồng hoa màu , rau quả . 
Ở một nơi làm ra điện mà sống nhiều giờ không có điện 
nghĩ cũng buồn ....EVN muốn đưa vùng quê nghèo khó 
này trở về thời kỳ đồ đá hay sao ấy nhỉ ??








.
......ngày nào có điện , các bác nông dân tranh thủ tưới ,
 50 máy bơm hoạt động cùng lúc , quá tải ...điện tự nhiên cúp.
Nhưng họ rất sáng tạo , chiếc máy cày được độ lại 
thành 1 máy bơm , khi cần cày thì cày , khi cần tưới thì tưới ....

.....lang thang 1 lúc , nhìn tháy 2 con vật trong một cái chuồng ....


...và đồng loại của nó (những con vật này người ta gọi là con bò :D) , 
nhìn chúng và liên tưởng tới các quan bác EVN , nếu các quan bác
 có não bộ phát triển hơn chúng nó thì có lẻ không phải cúp điện
thường xuyên như thế này .


Đã có một thời hay được nghe những câu sáo rỗng , nào là "vắt đất ra nước " , "thay trời làm mưa "....và những câu đại loại như thế . Giờ đây mọi sự đổ tại ông trời sao không mưa để cho thiếu điện




Tối nay sau khi vừa có điện lúc này cũng đã 23 giờ , viết vội mấy dòng nhăng cuội , xong lại "tư duy" lại về chuyên điện và đưa ra vài dự báo .
Những thiết hại về kinh tế , văn hóa , xã hội không thống kê làm gì vì ai cũng tính được .
Chĩ nghĩ tới những hậu quả do thiếu điện gây ra như thế này :
Dự báo số 1 :
Trong vài năm tới , khi nhận được thiệp mời đám cưới , trên thiệp đề :"bà quả phụ Nguyễn Văn X , nhũ danh Lệ Thị Y , trân trong báo tin ....
Nguyên do như thế này , các bác U 50 , cúp điện không TV - không sách báo - không Internet , không ánh sáng - ngủ sớm , ức chế vì chuyện mất điện nên đọc nhầm bảng cửu chương .
Thay vì đọc cửu chương chín : 5 nhân chín bốn lăm (U 50 , lấy 5 x 9 = 45 _ 4 tuần 5 lần xxx ) lại đọc nhầm cửu chương ba : 5 x 3 = 15 và thực hành theo _1 tuần 5 xxx , quá tải và ...chết sớm để lại những đưa con đạng độ tuổi cập kê cho mẹ nó lọ chuyện sau này.
Dự báo số 2:
Năm học 2017-2018 , số phòng học của các trường Tiểu học ở thị trấn Dran bé nhỏ này thiếu nghiêm trọng.
Nguyên nhân là mùa khô năm 2010 bị cúp điện triền miên
Diễn giải như thế này nhé : tối không điện thì làm gì , tất nhiên là ngủ sớm , 6-7 giờ tối mà lên giường liệu có ngủ được không ? Tất nhiên là khộng rồi . Chuyện gì diễn ra tiếp theo ? và với mật độ cúp điện dày đặc như thế , đôi khi làm người ta quên (quên dùng chiếc bong bóng bé nhỏ nhưng có thể thổi ra rất to lúc ...đi ngủ )cứ thế mà suy diễn thì có thể hiểu được vì sao năm học 2017-2018 thiếu phòng học .

Thứ Sáu, 9 tháng 4, 2010

Cờ - Internet - Thăng Long Kỳ đạo - Connect



1. Nick YM : SangChang – Những tin nhắn và tấm hình


Nhìn tấm hình trên , một lạ - một quen , anh chàng đứng bên trái nhìn quen quen ấy được người đời xưng tung là “Dịch Lâm đệ nhất cao thủ “ họ Hứa . Nhưng người quen đó không là nhân vật chính trong entry này .
Tôi đang muốn nói về người lạ trong tấm hình trên . Sau khi topic này được đưa lên thanglongkydao.com , hơn tháng sau đã gần như chìm vào quên lãng vì đã hết tính thời sự , thế nhưng có một người khách từ bên kia bán cầu tình cờ lướt qua , anh đọc topic này và phát hiện nhân vật có tên Vòng Cá Bẩm(A Pẩu nhân vật chính trong topic …dười chân đèo … ) mà tôi nói tới trong đó .
Vị khách ấy ở tần miền Đông nước Mỹ - chính xác là SanFrancico- tên SangChang , là người bạn từ thưở thiếu thời của AP . Anh rời VN từ những năm 80 khi mới ngoài 20 , vôn trước là Hoa Kiều ở Định Quán cùng với AP . Anh đã trở lại VN vài lần để tìm lại người bạn khi xưa nhưng hoàn toàn vô vọng vì AP đã bỏ xứ đề về một vùng quê hẻo lánh tận Lâm Đồng để sinh sống mà không lời từ biệt .
SangChang đã gửi tôi Email và một số tin nhắn qua YM nhờ giúp đỡ tìm lại người bạn khi xưa sau khi tình cờ vào thanglongkydao.com , và anh đã tìm đúng người , đúng địa chỉ , và tấm hình trên là tín hiệu đầu tiên để bắt liên lạc sau hơn 30 xa quê .

2. Cuộc gọi lúc 0 giờ

Thư đi tin lại vài lần , tôi đã gửi anh số liên lạc của AP và của H1R5 này luôn .
Vài ngày sau , trong luc đang ngon giấc chợt nhạc khúc CalessWhisper từ ..chiếc Nokia reo lên ầm ĩ , giật mình thức dậy thì lúc ấy đã nữa đêm , ngạc nhiên vì giấc này ai lại rảnh đi quậy phá mình nhưng tôi cũng bắt máy , đầu kia một giong lơ lớ , cưng cứng xưng là Sáng (Hóa ra tên SangChang đọc theo tiếng Việt là Sáng) và hỏi tôi có phải là H1R5 không ? , anh mừng rỡ báo tin là đã liên lạc được với AP và điện thoại báo tin cho tôi biết , anh nói liên tục trong 30 phút trong tâm trạng rât phấn khích , anh quên mất là ở VN lúc này là nửa đêm về sáng , anh nói đủ chuyện trên trời dưới đất , tự chuyện HNX sang Mỹ huấn luyện ngắn hạn cho anh đến chuyện dự đinh anh về VN sẽ tố chức trận đấu giao lưu giữa AP và Tôn Thất Nhật Tân vì Tân cũng là bạn của anh . Sau mội hồi anh chợt nhận ra giọng của H1R5 rất chi là …ngái ngủ , anh giật mình nhớ ra ở VN đã giữa đêm nên anh chúc ngủ ngon và hẹn gặp lại .

3. Gặp mặt tối 7/4


Một thời gian sau , tôi cũng quên mất là mình có một người bạn mới ở bên kia bán cầu vì sau cuộc gọi tối hôm ấy , anh không liên lạc gì nữa . Tối hôm đó , đang ngồi lướt net định “8” chuyện tứ kết cúp C1 trên diễn đàn về trận MU vs Bayer Munich trên TLKĐ thì có tiếng gõ cửa , trước mặt tôi là AP và vị khách lạ mà tôi không khó để đoán ralà SangChang vì đã xem qua hình , ngoài đời anh còn khá trẻ so với tuổi 58 , nhìn rất dễ mến , anh nói tiếng Việt khá tốt dù là người Hoa định cư ở Mỹ trên 30 năm , tuy nhiên khi nói chuyện , nhất là chuyện về học Toán ở Mỹ và VN (anh biết tôi là gv Toán nên hay nói về chuyện Toán học) khi “bí từ” anh mượn tạm tiếng Mỹ chen vào .
Một chi tiết thú vị , anh là bạn với Mâu Hải Cần (hạng III thế giới giải cờ tướng TG lần thứ 11) , Mâu đại diện cho đội cờ miền Tây nước Mỹ còn anh đại diện cho đội cờ miền Đồng nước Mỹ và dụ giải thế giới năm 2005 tại Paris , ván đầu tiên SangChang gặp Trịnh A Sáng , vì A Sáng sang Paris cận ngày (đặc điểm của đoàn VN đi dự giải Quốc tế là như thế) nên đồng hồ sinh học của anh chưa được điều chỉnh , vừa đánh vừa buôn ngủ nên A Sáng đã thua SangChang trong ván đấu đầu tiên này ., SangChang vẫn thừa nhận là trình độ anh không bằng A Sáng nhưng anh đã may mắn chiên thắng đối phương .
Sau đó anh còn kể chuyện LữKhâm sang Mỹ chấp anh 3 tiên và đã thúc thủ vì Hứa Ngân Xuyên đã chỉ cho anh tường tận từng nước cờ khi đi trước 3 nước gặp Lữ .
Thời gian không nhiều nên rất tiếc tôi không có cơ hội tiếp anh vài ván cờ , vì trưa hôm sau anh trở về Sài Gòn còn tôi thì sáng hôm sau quá bận.

4. Cờ tướng – Mạng Internet – Diễn đàn Thăng Long Kỳ Đạo – Kết nối

Quả là “ Dĩ kỳ hội hữu”
Chơi cờ , nhờ mạng internet , đánh cờ qua mạng CXQ , tôi quen khá nhiều bạn mới như trung_cadan , themgaidep , dibui , chuotkhoang , Hoangminh_VH , vohoaian74 , Vit07, DLP2000……, tất cả đến với nhau vì một tình yêu , theo lời themgaidep thì chúng tôi đều là “những con vịt yêu cờ “ .
Từ ngày thành lập diễn đàn cờ thanglongkydao.com , tôi lại có thêm nhiều bạn mới như trannhien , HuaNgan_Linh , ldtk và rất nhiều anh em Kỳ Hội Quán Sài Gòn , đặc biệt anh Thực (dohuuthuc) đã không ngại đường xa , từ SG lên Đà lạt và về Đơn Dương thăm tôi và giao lưu vài ván cờ , ngồi hàn huyên tâm sự rất tâm đầu ý hợp. Hay như dibui từ Hanội xa xôi cùng ghé quá Lâm đồng và cùng ngắm cảnh hàn huyên vời tôi cả một buổi.
Và tất cả đã được kết nối với nhau hoàn hảo , để rồi qua cờ-Internet – Thăng long Kỳ đạo , tôi đã kết nối được SangChang và AP sao bao nhiêu năm tìm kiếm trong vô vọng , họ đã gặp nhau trong niềm vui vô hạn .



Thứ Hai, 5 tháng 4, 2010

9 tháng tư năm ấy , ngày gì ? (*)



9 tháng 4 năm 2006 , nằm trong khoa ngoại bệnh viện L Đ , lần đầu tiên tôi dùng ĐTDĐ nhắn tin cực kỳ vớ vẩn : xem bói qua mạng SMS , thật tình mà nói thì chả bao giờ mình tin ba cái chuyện bói tướng , xem quẻ …., càng không tin cái chuyện xem bói qua mạng cực kỳ nhảm nhí này , những vẫn thử bói 1 quẻ tại sao mình lại nằm trong khoa ngoại như thế này. Kết quả của quẻ bói này là “Hôm nay ngày đại cát , đại hỷ , gặp nhiều may mắn ….” , đại loại là 1 quẻ rất là tốt (!) , cười ra nước mắt .


Mới đó mà đã 4 năm trôi qua , không thể nào quên được chuyện ngày hôm đó . Lúc ấy chở cả nhà đi Đà lạt có chút công việc (mua 1 số linh kiện máy tính và khám bệnh cho cu Gôn ) , đi qua Trại Mát , lúc mình chạy cẩn thận nhất là lúc xảy ra chuyện ,vì không ngờ trên đường có lớp cát mỏng làm “xìa “ bánh trước mất tay lái , lại khuất tầm nhìn dó có chiếc xe tải ven đường nên đã đâm vào xe ô tô ngược chiều , hậu quả là vợ giữ cho con không văng ra khỏi xe nên đứt gân Achilles vì đút nguyên cả bàn chân vào bánh xe nên đến tận bây giờ vẫn chân cao chân thấp , có lẻ điều may mắn nhất trong quẻ bói nói trên là cu Gôn không hề hấn gì cả . Chiếc Future nhìn chỉ là 1 đống sắt vụn mà khi người nhà lên xem thì nghĩ rằng chắc ....đã xong rồi .

Những thanh niên tốt bụng ở đó đã đưa cả gia đình nhập viện mà từ đó đên nay mình chưa gặp lại để nói lời cảm ơn .
Nhưng những chuyện vừa nói trên cũng chỉ là …chuyện nhỏ


Hai chiếc xe một tô tô và một xe máy được đưa về CATP, tưởng như rằng mình bị nạn , 2 bên thỏa thuận là xong chuyện . Sáng hôm sau vào CATP , viên sĩ quan CSGT tên NĐH phụ trách vụ này , tạm gọi là H đi .
(Định nghĩa lại : H có nghĩa một loại động vật máu lạnh không có tình người -hay là tính người cũng được) .

H lạnh lùng vất ra 2 tờ giấy cho 2 người , một cho mình và một cho chủ nhân của chiếc ôtô bắt viết tường trình vụ tai nạn xảy ra . Sau khi viết xong , lim dim cặp mắt “lưỡng nhãn bất đồng “ (*) , H quát hỏi , trong việc này ai là người có lỗi ? Mình nhanh nhảu (đoảng) : “không ai cả “ vì lớp cát ven đường lám mất tay lại , bất ngờ qua nên xe ôtô đâm vào , lý do rất khách quan .
H hét ầm lên : “ tại sao lại không ai có lỗi ?, anh đi xe máy , anh không quan sát duới mặt đường có lớp cát để mất lại gây ra tai nạn (!) “ và H bắt tôi viết bản kiểm điểm (!?).
Cả một thời đi học cho tới khi đi làm , chưa bao giờ bị ai bắt viết kiểm điểm , mà bây giờ bị 1 thằng nhóc chưa tới 30 bắt viết kiểm điểm quả là ...nhục thật . Nhưng để xong chuyện thì đành phải viết vậy , sau khi viết xong H đọc qua và bảo , anh viết kiểm điểm mà sao anh không nhận lỗi ? anh không có ý phục thiện (!) , và H buộc mình viết lại bản khác .

Ừ thì viết , bàn tay phải bị may mất mấy mũi , đầu choáng vì đập vào thành xe ôtô , may có mũ bảo hiểm (xịn) nên chưa …chết , lục lọi 1 đỗng chữ nghĩa cho hợp lý , viết lại bản khác với lỗi là không quan sát mặt đường (?)
Thế là hết một ngày , H hẹn sáng hôm sau vào giải quyết .

Đúng hẹn , sáng hôm sau tôi lại có mặt nhưng H biến mất , chờ hoài không có đành quay về bệnh viện , vừa là bệnh nhân , vừa là người chăm sóc cho vợ không đi lại được vì đứt gân Achilles mà .
Sau vài lần hẹn như thế thì cuối cùng cũng gặp , lý do vì sao thì mình cũng tự biết , nhưng nhìn bộ mặt đáng ghét của H thì 1 xu cũng không bố thí cho loại người này .

Xong vụ bản kiểm điểm , H nói trên trời dưới biển một hồi về luật giao thông , và H kết luận vợ mình là …người bị hại , H buộc mình phải có giấy “bãi nại “ do vợ viết có chữ ký của địa phương (!) . Ui trời ơi , chồng chở vợ đi , không may bị tai nạn , muốn lấy xe ra để sữa chữa , vợ phải viết giấy bãi nại cho chồng , quả là tên H này đúng là như đã được định nghĩa lại ở trên . Kiên quyết không chi 1 xu dù H ngầm gợi ý là tự lấy điếu 555 ra nhả khói phì phèo , mình mua cây 555 để cho mấy con tắc kè hút không tiếc chứ cho H 1 điếu vẫn …thấy tiếc nên dứt khoát không cho cho dù nó nghĩ ra đủ chuyện để làm khó . OK , muốn giấy bãi nại thì có ngay , thuê người đánh máy và nhờ ký là xong .
Từ lúc gặp H cho tơi lúc đưa giấy bãi nại cho hắn là đúng 9 ngày , và tất nhiên là đến ngày thứ 10 mới lấy được xe . Ngày thứ 9 này H bảo mình chuẩn bị 1T để đóng phạt , đến ngày thứ 10 , H trả lại bằng lái 1 với 1 lỗ bấm , 50 K tiền giữ xe 10 ngày và 400K tiền phạt nộp cho kho bạc .

H chắc đã quên điều thứ tư trong 6 điều dạy của Bác
“Đối với nhân dân phải kính trọng, lễ phép”

Thái độ xấc láo , trịch thượng và vòi vĩnh …miễn bình luận , cái quan trọng là không còn thấy 1 chút tình người trong con người này .

4 năm trôi qua , nhìn bàn chân của vợ lại nhớ tới chuyện xưa .(người ta gọi là “nhớ bài lai” )


(*) Tiêu đề nhại theo cái đêm hôm ấy đêm gì của Phùng Gia Lộc
(**) Người có đôi mắt “lưỡng nhãn bất đồng “ thường bị cho là loại ...lừa thầy phản bạn

Thứ Bảy, 3 tháng 4, 2010

BÊN DÒNG MAI NƯƠNG

Bài viết này là loạt bài cuối về Dran xưa của LamNguyen đăng trên diễn đàn danhim.net với tiêu đề " Dran xưa : Hết chuyện kể thì mình kể chuyện tình"



BÊN DÒNG MAI NƯƠNG




Lạ chưa. Cứ như là mình mắc nợ mắc nần gì danhim.net vậy. Mình vẫn còn muốn kể chuyện cho các bạn nghe. Chuyện Dran xưa coi như đã hết. Thôi thì, HẾT CHUYỆN KỂ RỒI THÌ MÌNH KỂ CHUYỆN TÌNH. A ha, các bạn, nhất là các bạn trẻ lại khúc khích cười rồi nhanh chóng tưởng tượng ra nội dung câu chuyện sẽ là:” Có một cô gái đẹp như mơ như mộng, con nhà quyền quý đem lòng yêu một anh học trò nghèo văn võ vẹn toàn. Trai tài gái sắc nhưng không vượt qua sự phản đối của gia đình nên cuộc tình cũng chẳng đến đâu” hoặc sẽ là:” Có một chàng trai vốn dòng trâm anh thế phiệt, tương lai rạng ngời đem lòng yêu một cô thôn nữ làng bên. Rõ ràng đây là một đôi thanh mai trúc mã nhưng không được sự chấp nhận của mẹ cha nên cuối cùng họ phài chia tay sau một nụ hôn giã biệt…” Không. Không phải như vậy. Chuyện tình đâu chỉ đơn giãn và nghèo nàn như thế. Tại sao mỗi khi nhắc đến chuyện tình ta chỉ nghĩ đến tình yêu đôi lứa mà quên rằng còn có biết bao mối tình khác cao đẹp hơn.
Xưa, Dương Lễ sai vợ là Châu Long nuôi bạn là Lưu Bình ăn học cho đến lúc thành tài. Tình bạn bè như thế dễ mấy ai quên. ( Truyện Lưu Bình Dương Lễ) Còn cái tình yêu kỳ lạ của nàng dâu Thoại Khanh, dám tự lóc thịt mình để nuôi mẹ chồng khiến cho ai cũng phải nghiêng mình kính phục ( Truyện Thoại Khanh Châu Tuấn ). Sợ hai em bị cơ hàn khổ cực, Mẫn Tử tự nguyện nhận tầt cả bất hạnh về mình:

Sa nước mắt chân quỳ miệng gữi
Lạy cha xin xét lại nguồn cơn
Mẹ còn chịu một thân đơn
Mẹ đi luống những cơ hàn cả ba
(Truyện Mẫn Tử Khiên )
Lời van xin cha hãy giữ dì ghẻ lại để hai em khỏi bị cơ hàn. Tình anh em như thế thật đáng trân trọng vô cùng. Và ở đây, tôi muốn nói đến một mồi tình thiêng liêng cao cả hơn nữa, đó là tình mẫu tử.

Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ.
( Ca dao )



CHẠY GIẶC


Tôi sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu. Mới lên tám tôi đã chịu cảnh mồ côi. Nhớ lại một sáng mùa thu năm ấy…

Mỗi khi nhắc đến mùa thu ta thường nghĩ về nắng vàng gió nhẹ. Bầy trẻ tung tăng cắp sách theo mẹ đến trường. Đêm về, trăng thu vằng vặc, có chú cuội cây đa. Có tiếng trống rộn ràng theo nhịp lân múa và bầy trẻ rước đèn chờ giờ phá cỗ. Không hề có an bình như thế. Đây, một mùa thu xám xịt. Thu khói lửa…
Mấy hôm nay súng nỗ nhiều quá. Tiếng nỗ đì đùng lúc nhặt lúc thưa, có lúc làm một tràng dài khiến ai nấy đều hoang mang lo lắng. Người ta truyền tai nhau :” Chạy giặc” . Chạy giặc? Hai từ thật lạ lẫm. tôi chưa thể hình dung ra chạy giặc là như thế nào. Mẹ thu vén cả giang san vào một đầu thúng. Còn đầu thúng kia mẹ lót chiếc mền rồi đặt em tôi vào đó. Mẹ quảy gánh lên cùng lúc nắm lấy tay tôi rồi bắt đàu…chạy giặc. Tôi, một thằng bé suốt ngày tha thẩn quanh nhà xó bếp bỗng nhiên được chạy nghênh ngang ngoài đường. Tôi thích chí lắm. Nhìn ngang nhìn dọc, bọn trẻ cùng lứa cũng như tôi, vừa chạy lon ton vừa cười. Em tôi ngồi trong chiếc thúng vừa gục gặc dầu vừa cười như nắc nẻ. Đông. Vui. Chạy giặc thế này thì thích thật. Mà sao chạy lâu thế nhỉ? Tôi đã thấm mệt, đôi chân nặng dần mà chẳng thấy đoàn người dừng lại.
Hôm sau, chúng tôi dừng chân lại ở một làng quê hẻo lánh. Dran đây ư ? Sao Dran hoang sơ vắng vẻ thế. Rãi rác vài mươi liếp nhà tranh, thi thoảng mới thấy một ngôi nhà ngói. Đường sá vắng tanh. Chúng tôi tá túc tại nhà bà Bếp Ba, một bà cụ tốt bụng ở Xóm Làng. Bà có một đàn bò thường ngày thả rong ở triền núi, tối mói lùa về. Mấy hôm nay chộn rộn nên đàn bò bị nhốt trong chuồng. Suốt ngày hết long rong trong vườn tôi lại quanh quẩn bên chuồng bò. Tôi nghịch ngợm với mấy chú bê. Thấy vậy, bà bảo :” Hôm nào về bà cho một con đem về mà nuôi”. Bà nói đùa mà tôi tưởng thật, lại càng quấn quýt với đàn bò hơn. Cái xứ Dran khí hậu sao mà khắc nghiệt, gần nửa buổi sáng chưa thấy mặt trời, chiều chưa tắt nắng sương mù đã giăng phủ kín. Tiếng chim kêu vượn hú mới não nùng làm sao.
Những tưởng tạm lánh đôi ngày rồi trở về phố thị. Ai dè…
Buổi trưa im ắng lạ thường. Tiếng gà gáy lạc điệu từ xa nghe rõ mồn một. Bỗng có tiếng loa vang. Mọi người đỗ dồn ra đường. Trên bậc cấp cao nhất của ngôi chùa làng, một anh thanh niên vác chiếc loa thiếc dài ngoằng đang cố hết sức gào to :” Mặt trận Phi-Nôm ( Fimnom ) vỡ rồi, bà con mau tản cư “ Lặp đi lặp lại đôi ba lần rồi cả người và loa đều biến mất. Thế là, không ai bảo ai, kẻ gồng người gánh, đùm túm dắt díu nhau đỗ dồn về miệt đồng bằng.

EM TÔI ĐÃ CHẾT NHƯ THẾ ĐÓ

Lúc này đoàn người tản cư không còn chạy theo quốc lộ mà dạt lên rừng. Tôi vẫn chạy lúp xúp bên cạnh mẹ. Em tôi hai tay tì mép thúng, mở to đôi mắt tròn xoe, đen lay láy nhìn tôi, nó nghiêng bên này, ngoẹo bên kia, nheo nheo mắt như muốn trêu tôi. Em tôi dễ thương quá. Tiếng chân dẫm lên lớp lá thông khô nghe xào xạc. Đoàn người vẫn lầm lũi nối đuôi nhau như đoàn dân Do Thái đang tìm về miền đất hứa.
Tiếng súng nỗ nghe giòn hơn, như gần hơn. Trên bầu trời nhá nhem, xám xịt, những tia lửa đạn đan chéo nhau như những dãi pháo hoa. Đạn bay vèo vẻo, tiếng cành cây gãy đỗ phá vỡ sự im lặng của đoàn người đang câm lặng. Có tiếng ai gọi… Chị ơi, chị ơi! Nhìn em bé thử…Mẹ tôi dừng lại, đặt gánh xuống, ngoái đầu rồi đỗ sụm người ôm lấy chiếc thúng. Em tôi nằm ngoẹo cổ sang một bên, hai tay vẫn còn bám chặt mép thúng. Bất động. Máu đã thấm đẫm áo em. Còn mẹ tôi trong tích tắcnhư trở thành một con người khác. Mẹ già hẳn đi. Tóc tai rũ rượi, mặt mũi bơ phờ, gương mặt không còn thần sắc. Vài người dừng chân giúp mẹ đào một cái hố nông choẹt chỉ vừa chỗ đặt chiếc thúng rồi vội vội vàng vàng lấp lại qua loa, phủ thêm một lớp lá khô lên mặt. Tên bay đạn lạc đã cướp mất em tôi. Người ta lôi mẹ dậy. Bây giờ mẹ đội cả gia tài lên đầu, một tay nắm chặt tay tôi rảo bước. Tôi lê chân đi mà mắt cứ ngoảnh lại nhìn, tôi muốn xem thử em tôi có chạy theo không. Lòng tôi nặng trĩu. Em tôi mãi mãi nằm lại nơi này. Em tôi đã chết như thế đó, nó nằm khoanh tròn trong chiếc thúng như con chó đói.
Qua khỏi vùng rừng núi, đoàn người tản cư giờ lại chạy theo quốc lộ. Họ đã chia năm xẻ bảy thành nhiều nhóm, mỗi nhóm tùy chọn một nơi đến. Họ đi như bầy thú hoang cứ nhắm mắt theo con đầu đàn. Nhóm chúng tôi lớn nhỏ hơn hai chục người chuẩn bị vượt sông. Vượt sông. Dòng sông Mai Nương mùa này cạn ngắt. Người lớn lội qua chỉ quá gối còn lũ trẻ phải đén ngực. Mọi người giúp nhau qua dễ dàng. Trời tối dần, tối dần… Xuyên qua xóm dân cư thưa thớt, đoán người cứ lầm lũi đi trên bờ ruộng. Cuối cùng rồi tất cả cũng dừng lại trong một khu rừng chuối. Tôi không thấy mẹ đâu nữa. Qua mấy ngày cùng chung hoạn nạn, ai nấy đều coi nhau như trong một đại gia đình. Mọi người trấn an, dỗ dành tôi. Không sao đâu, mẹ sẽ trở lại mà. Tôi ngồi thu lu suốt đêm bên gốc chuối. Chiều hôm sau, quả thật mẹ tôi đã trở lại. Vừa trông thấy, mẹ đã ôm chầm lấy tôi rồi khóc tức tưởi. Mẹ ôm chặt quá khiến tôi đau điếng, tôi cố vùng ra mẹ lại càng ôm chặt hơn cứ như mẹ sợ tôi trôi tuột đi mất.
Khu vườn chuối rộng thênh thang giờ đã thành một xóm ngụ cư. Mỗi gia đình chọn một góc,sắp xếp dọn dẹp để làm chỗ ở. Mẹ kéo lê những thân chuối ghép lại, trãi lên thật nhiều lá khô, trên cùng là manh chiếu. Đó là tổ ấm của gia đình tôi. Hai mẹ con nằm dài lên đó, dang thẳng tay chân. Bao nhiêu mõi mệt của mấy ngày qua rơi rụng dần dần. Tôi thiêm thiếp rồi chìm sâu vào giấc ngủ.
Từ trong khu vườn nhìn ra là cánh đồng bát ngát. Lúc này lúa đã chín vàng trĩu hạt. Mỗi khi làn gió nhẹ thổi qua sóng lúa lại dập dềnh, vài cánh cò trắng bay la đà khiến cho ta có cái cảm giác bình an. Dân địa phương đã vào mùa gặt. Ở những thửa ruộng đã gặt xong, nhóm người ngụ cư lại dàn hàng ra đi mót. Mỗi người một cái bị, họ nhặt nhạnh những hạt lúa rơi vãi, những tép lúa còn sót cho vào bị. Chính những hạt lúa mót này đã cho những con người khốn khổ đủ sống lây lất qua ngày.
Hôm nay có tát đìa. Đìa nằm ở rìa cánh đồng sát với xóm ngụ cư. Từ sáng sớm, một nhóm có hơn mười người kéo đến. Họ mang theo nào gầu, nào thùng, rỗ rá…Theo lệnh của một người, chắc là chủ đìa, họ be bờ, tát nước. Gần đứng bóng nước đã cạn kiệt. Xem kìa, cá ơi là cá. Những con lóc, con trê, con rô thi nhau uốn mình nhảy đành đạch. Người ta xúc cá cho vào giỏ, vào thùng. Rõ ràng chủ đìa đã được một mùa bội thu. Khi bọn người tát đìa rút đi thì cũng là lúc gần như cả cái xóm ngụ cư đều nhảy ùm xuống nước. Người nào người nấy lấm lem từ đầu đến chân. Mẹ chộp được một con lóc bằng nắm tay chưa kịp vứt lên bờ thì chú cá đã vọt lại xuống sình. Một anh thanh niên gần đó vội tóm lấy. Mẹ tôi giành lại. Thế là “ chiến tranh” xảy ra. Cãi cọ. La lối. Mẹ phùng mang trợn mắt như muốn ăn tươi nuốt sống đối phương. Trông mẹ thật dữ tợn. Cuối cùng rồi mẹ cũng lấy được con cá. Gương mặt mẹ tôi giãn nỡ, trở lại trạng thái bình thường. Mẹ nhìn tôi rồi nhoẻn miệng cười. Nụ cười mới ấm áp làm sao. Mãi sau này lớn lên tôi mới hiểu. Người mẹ nào cũng vậy, vì con, vì miếng ăn cho con, mẹ có thể làm bất cứ điều gì. Tôi được một bữa ăn đặc biệt. Mẹ nướng cá. Mùi cá thơm lừng lựng. Mẹ nói :” Giống cá đồng này xương dữ lắm!”. Vừa nói mẹ vừa tỉ mẫn rút từng cái xương nhỏ, phần thịt cá mẹ dành cho con trai, còn mẹ nhai, mút những chỗ còn lại. Tôi đã từng ăn uống ở nhiều nhà hàng sang trọng, đã từng thưởng thức biết bao món ngon vật lạ nhưng chưa bao giờ tôi có cái cảm giác ngon miệng như bữa ăn trưa hôm ấy.

MẸ ĐÃ BỎ TÔI MÀ ĐI

Tôi sốt. Suốt ngày dang nắng đã rồi lại trầm mình dưới suối. Tôi bị sốt li bì lúc tĩnh lúc mê. Mẹ ngồi suốt đêm bên cạnh. Cứ mở mắt ra tôi lại thấy mẹ cầm cái quạt mo cau phe phẩy cho tôi. Nào chanh, nào gừng mẹ xin về cho tôi uống. Đến khi tôi khỏe lại bình thường cũng là lúc mẹ tôi ngã bệnh. Đã ba hôm nay mẹ không ăn được chút gì. Buổi tối, mọi người xúm quanh bên mẹ tôi, xầm xì bàn tán. Rồi sáng hôm sau, hai người đàn ông khỏe mạnh khiêng mẹ tôi ra nhà thương. Mẹ nằm im trên chiếc võng rách, tôi lúp xúp chạy theo, tay xách cái bị lát với vài bộ quần áo.
Đây là nhà thương thí, nơi bệnh nhân được điều trị và ăn uống không mất tiền. Nơi đây chỉ dànhcho những người bần cùng. Thuốc men thiếu thốn. Mỗi ngày y tá chỉ đến phát thuốc một lần rồi thôi. Tôi đi lấy phần ăn cho hai mẹ con. Hai bát cháo lỏng bỏng và hai đôi đũa, ăn cháo bằng đũa thật nực cười. Tôi chỉ húp cái xoẹt là xong. Tôi dùng đũa để dút cháo cho mẹ, mẹ chỉ khẻ lắc đầu rồi nằm thiêm thiếp. Tôi húp luôn phần cháo của mẹ. Tôi thường ra đứng trước cổng bệnh viện. Ở đây có nhiều hàng ăn. Trời đất ạ! Nồi cháo lòng bốc lên cái mùi thơm phưng phức, tôi giương mũi lên hít lấy hít để, nước bọt ứa ra, tôi nuốt ực một cái rồi thè lưỡi liếm môi. Tôi ước ao, rồi một lúc nào đó mình sẽ được ăn một tô cháo đàng hoàng.
Tính cà ba hôm nằm ở vườn chuối đến nay là sáu ngày rồi. Mẹ không ăn uống gì cả. Khác với mọi hôm, sáng nay tôi thấy mẹ khỏe ra. Mẹ ra dấu cho tôi đến gần rồi nhìn tôi với ánh mắt khác lạ,mắt mẹ rơm rớm. Mẹ dúi vào tay tôi tờ giấy bạc một đồng nhàu nhò rồi mấp máy :” Cho con ăn bánh “ Trời, mẹ có tiền. Tôi không nghĩ mẹ có tiền, lại càng không nghĩ mẹ cho tôi tiền. Mẹ lại nằm thiêm thiếp. Mẹ ơi, mẹ cho con thật hả mẹ? Con đi ăn cháo nghen mẹ. Con đi ăn cháo đây. Trời ơi, làm sao tôi biết được giây phút lóe sáng của ngọn đèn sắp tắt. Cái giây phút tĩnh táo của mẹ là tàn lực của kẻ biết mình sắp lìa đời.
Tôi ngồi chễm chệ trên cái đòn rồi nói :” Bán cho con năm cắc cháo “. Như sợ bà hàng không tin, không bán tôi đưa trước tờ giấy bạc cho bà. Coi kìa, tô cháo đầy tú hụ, mấy miếng thịt trãi lên trên, một miếng huyết đỏ au, thêm một chút hành ngò, một chút tiêu, chỉ mới nhìn thôi đã chảy nước miếng. Hai tay bưng tô cháo nâng cao, tôi dí sát mũi vào “ công khai “ hít một hơi thật dài, thật sâu. Chao ôi, cái mùi vị sao mà quyến rũ. Tôi chậm rãi ăn từng muỗng. Tôi nhai. Nhai. Nhai thật kỹ rồi mới nuốt. Tôi không biết nem công chả phụng ngon thế nào, Tôi không biết yến sào, vi cá ra sao nhưng tôi tin chắc những thứ ấy không thể nào sánh được với tô cháo này. Nó ngon không thể nào tả nỗi. Rồi tô cháo cũng hết. Tôi liếm cái tô rồi mút cái muỗng. Giờ thì cả tô lẫn muỗng đầu sạch bóng như vừa được rữa xong. Nhìn cái muỗng sáng choang trong đầu tôi chợt lóe lên một ý nghĩ. Tôi muốn lấy cái muỗng này. Có cái muỗng tôi sẽ đút cháo cho mẹ. Có cái muỗng chắc mẹ sẽ ăn được chút ít.. Tôi cuộn cái muỗng vào lưng quần, rón rén đứng dậy đi giật lùi vài bước rồi xoay người chạy biến. Tôi là thằng ăn cắp. Tôi đã ăn cắp chiếc muỗng. Tôi thấy lòng bức rức, mình đã làm tầm bậy. Bỗng tôi chợt nhớ ra, mình vẫn chưa lấy tiền thối lại, như vậy cái muỗng này đáng giá năm cắc. Thôi thế cũng được, chắc cũng chẳng bên nào bị thiệt thòi. Chạy vào chưa tới cửa phòng tôi đã hét lên :” Mẹ ơi, mẹ ơi ! Con cho mẹ cái này “. Tôi sựng lại, nhìn chiếc giường trống trơn. Mẹ đâu rồi nhỉ? Mẹ tôi thì làm sao có thể đi đâu được chứ. Bà cụ nằm cuối phòng cất tiếng :” Mẹ cháu chết rồi, người ta mang đi chôn gần cả tiếng đồng hồ rồi “. Tôi sững người. Đêm hôm ấy tôi nằm co ro trên giường, hai tay ôm khư khư chiếc muỗng. Tôi suy nghĩ lung tung. Mẹ chết lâu không? Mẹ chết mấy ngày rồi mẹ trở lại? Tôi chìm dần, chìm dần trong mộng mị. Tôi chơi vơi, bềnh bồng…
Ánh sáng xuyên qua cửa sổ rọi vào mắt. Tôi choàng dậy, căn phòng trống trơn. Bà cụ nằm giường cuối chắc đã ra ngoài. Chiếc muỗng tôi yêu thích đã không cánh mà bay. Thế là mẹ đã bỏ tôi mà đi thật rồi. Chiếc muỗng cũng bỏ tôi mà đi rồi. Tôi không khóc. Mẹ thường nói :” Con trai con lứa mà khóc xấu lắm! “ Tôi không khóc. Mà sao chiếc gối ướt đẫm thế này!

TÔI ĐI TIM MẸ

Tôi không biết tại sao mình có thể nằm đây. Tôi đang nắm sấp dưới gầm dãy ghế của toa tàu. Chắc hẵn đó là bản năng sinh tồn. Toa tàu hạng ba, ở giữa xếp ngổn ngang hàng hóa và hành lý, hai bên người ngồi ken cứng. Tôi nằm như thế để trốn người xét vé. Tàu lên đèo cà giựt, cà giựt, đã mấy lần đầu tôi va vào chân ghế đau điếng. Rồi tôi cũng theo được những người hồi cư về lại Dran.
Tôi đã sống như loài cây hoang dại. Cây hoang dại không được chăm sóc thường bị chết non, chết yểu nhưng cây nào còn sót lại sẽ sống tốt, sống khỏe. Tôi đã sống và lớn lên như thế đó. Và tôi cũng có thể tự hào nói rằng, tôi đã lớn lên bằng chính đôi tay, khối óc,mồ hôi, máu và nước mắt của chính mình.
Mười bảy tuổi. Chuyện cơm áo gạo tiền đối với tôi là “ vô tư “, là “ không thành vấn đề “. Mười bảy tuổi. Tôi là một Aide-Secrétaire ( phụ tá thư ký ) cho một đồn điền lớn của Pháp ở Blao ( Bảo Lộc ). Mười bảy tuổi, tôi quyết đi tìm mẹ. Không. Tôi đi tìm dấu tích của mẹ. Tôi xuôi về xứ nắng lửa mưa dầu để đến Cầu Bảo. Cầu Bảo là tên gọi xưa của Tháp Chàm. Tôi đứng tần ngần hồi lâu trước bệnh viện nơi trước đây là nhà thương thí, rồi tôi lại ngược lên Cầu Mống. Cầu Mống là chiếc cầu sắt giống hệt chiếc cầu của Dran nhưng ngắn hơn, chỉ có một nhịp mà thôi. Chiếc cầu này năm xưa khi qua tôi phải bò chứ chẳng dám đứng thẳng người mà đi. Cả bệnh viện lẫn chiếc cầu đều không gợi được cho tôi một hình ảnh gì về mẹ. Tôi thất vọng quay về. Tôi vòng lên Dalat, thăm hỏi, dò tìm. Cuối cùng tôi cũng tìm được ngôi nhà gỗ ngày xưa mẹ con tôi trú ngụ. May mắn làm sao, tôi có được tấm ảnh của mẹ. Mẹ đây rồi. Mẹ ngồi giữa hai người bạn. Tôi nhìn chăm chăm, bỗng bao nhiêu hình ảnh xưa hiện về. Mẹ đây rồi. Mẹ không đẹp lắm nhưng rất sang. Ở vào cái thời mà hầu hết phụ nữ trạc bằng tuổi mẹ đều ăn trầu, búi tóc thì mẹ không ăn trầu cũng không búi tóc. Tóc mẹ tết bím lỏng rồi quấn cao quanh đầu thật gọn gàng lịch sự. Trong ảnh mẹ mặc chiếc áo dài. Có những điều ta mới thấy đó rồi quên ngay nhưng cũng có những thứ nó ăn sâu vào tâm thức takhông bao giờ quên được. Như chiếc áo dài của mẹ, chỉ cần nhắm mắt một tí là tôi hình dung ra ngay, chiếc áo màu khói lam thật nhạt có những sọc trắng mờ, mặt vải bóng. Đây là xấp vải của một người bạn Pháp tặng mẹ ( Mẹ là một surveillante của trường nữ Pháp – Couvent des Oiseaux ). Buổi sáng khi đến trường mẹ mặc chiếc áo dài này, trên cổ buông lỏng sợi dây chuyền, bên ngoài mặc thêm chiếc manteau ( áo măng – tô ) tay xách giỏ mây, trông mẹ rất sang trọng ra dáng một “ Quý Bà “.
Tôi đem ảnh mẹ nhờ thợ cắt xén rồi rọi lớn. Tôi đã có chân dung của mẹ. Trong những ngày sống lang bạt kỳ hồ tôi vẫn giữ kỹ ảnh mẹ một bên. Mãi sau này, khi đã có một tổ ấm riêng tư tôi mới đem ảnh mẹ đặt lên một chỗ trang trong. Tôi đề lên di ảnh :

Hai tám xuân qua chừ khôn lớn
Thì nay còn đâu mẹ hiền xưa
Đốt nén hương lòng con tưởng niệm
Công ơn trời biển mấy cho vừa
Tôi là kẻ ngoại đạo. Phật, Chúa đối với tôi là những người không quen biết. Một ngày tháng bảy theo bạn viếng chùa. Chùa đang vào hội Vu Lan. Một bầy chim nhỏ trong đồng phục áo lam cài sen trắng nhìn chúng tôi ngập ngừng dò hỏi, sau đó cài lên áo bạn tôi một bông hồng, còn tôi một hoa màu trắng. Tôi ngạc nhiên, bạn giải thích. Vu Lan là mùa Báo Hiếu. Những ngày này, con cái đều tưởng nhớ về cha mẹ, dù cha mẹ còn tại thế hay đã qua đời. Ai còn mẹ sẽ được hoa màu hồng, ai mất mẹ cài hoa màu trắng. Tôi mân mê đóa hoa mà thấy tủi thân vô cùng. Thì ra tôi đã mất mẹ. Đâu đây vang lên điệu hát :

Một bông hồng cho anh
Một bông hồng cho em
Một bông hồng cho những ai
Cho những ai dang còn mẹ…
( Phạm Thế Mỹ )
Cám ơn Thiền Sư Nhất Hạnh đã du nhập về một mỹ tục đáng yêu.
Tôi theo đạo Phật từ đó. Tôi vào Gia Đình Phật Tử từ đó.. Nơi đây tôi đã gặp biết bao bạn
bè cùng chung lý tưởng và sống chan hòa trong tình yêu thương dưới mái nhà Lam. Tôi yêu quý biết ngần nào, tôi nhớ nhung biết ngần nào cái Gia Đình Phật Tử Trúc Lâm bé nhỏ xa xưa của tôi.
Nếu ai hỏi tôi thèm gì nhất? Chẳng cần đắn đo suy nghĩ tôi trả lời ngay : - Tôi thèm dược gọi:” Mẹ, Mẹ ơi! “Có lẽ nỗi thèm khát đó đã đem lại cho tôi nhiều bà mẹ trong cuộc đời. Mẹ bạn là mẹ tôi. Có lần con gái bé bỏng của tôi bật nói :” Mình có nhiều bà nội quá há! Bên này có bà nội, bên kia có bà nội, ở Saigon cũng có bà nội rồi trên bàn thờ cũng có bà nội nữa “. Tôi bật cười, con gái tôi đâu có biết tôi thèm có mẹ biết bao nhiêu. Bà mẹ nào tôi cũng yêu quý kính trọng nhưng tôi quý nhất là Má Năm.
Má Năm là mẹ của Chi, bạn tôi. Má Năm có món mì quảng tuyệt cú mèo. Cứ ra chợ Dran hỏi bà Năm Nhã bán mì quảng là ai cũng biết. Tội nghiệp Má Năm quanh năm tần tảo, chỉ với một ngôi nhà xiêu vẹo, một gánh mì quảng con con mà Má Năm đã nuôi được Chi ăn học tận Saigon. Chi muốn gì cũng có, chỉ cần hê lên một tiếng là Má Năm chắc bóp mua cho bằng được. Nào quần là áo lượt, nào xe đạp, bút máy, giầy tây, Chi không thiếu một thứ gì. Lâu lâu tôi ghé thăm, câu đầu tiên Má Năm nói là :” Tổ cha bây, đi đâu mà mất biệt. Ngồi đó, ngồi đó… để tao làm cho tô mì ăn nghen.”. Ôi, câu mắng đầy yêu thương, tôi nghe ấm cả lòng. Bưng tô mì quảng, tôi xì xụp vừa ăn vừa húp, sao mà ngon thế này. Ngon không phải vì cọng mì dai dai hay sợi hủ tiếu chiên giòn giòn, cũng không phài do cái ngòn ngọt của thịt hoặc vị bùi bùi của đậu phụng rang mà nó ngon vì Má Năm đã nêm vào đây một chút tình thương chân thật.
Vợ chồng Chi lên Darlac lập nghiệp, Má Năm di theo, từ đó biệt vô âm tín. Thời gian sau, một hôm tôi tình cờ biết được Má Năm đã trôi giạt lại về Dran rồi mất ở Lạc Xuân. Tôi tìm vào thăm, bàn thờ Má Năm hương tàn khói lạnh nằm khiêm tốn ở góc nhà của một người bà con xa dị giáo.. Tôi xin phép rồi rước hương linh Má Năm về thờ ở chùa Giác Hoàng trong lúc vợ chồng
Chi vẫn còn nằm trong trại cãi tạo. Thế là tôi lại mất thêm một người mẹ.
Bạn còn mẹ ư? Tôi ganh tị với bạn nhưng tôi cũng thật lòng chúc mừng bạn. Mẹ là báu vật, bạn hãy trân trọng giữ gìn báu vật của mình.
Bạn mất mẹ ư? Tôi xin chia sẻ và thông cảm nỗi khổ đau của bạn vì nỗi khổ đau này tôi đã trãi qua.
Dale Carnegie nói :” L’ homme est un roseau, le plus faible de la nature mais c ‘est un roseau pensant – Con người là một cây sậy, yếu ớt nhất trong thiên nhiên nhưng là một cây sậy biết suy nghĩ “. Hỡi những cây sậy biết suy nghĩ, hãy cho phép tôi được nói một điều, chỉ một điều mà thôi:” Hãy yêu quý mẹ, đừng bao giờ làm mẹ buồn, đừng baogiờ để mẹ phải rơi lệ bạn nhé!”.


Lamnguyên
Tháng ba 2010

Thứ Sáu, 2 tháng 4, 2010

Dran xưa : Chuyện nhớ đâu kể đó (tt)

MÌNH GHÉ QUA SÒNG TÀI XỈU MỘT CHÚT

Tài xỉu à? Tưởng gì chứ tài xỉu thì biết rồi. Cách đây năm bảy năm gì đó,cứ mỗi dịp Tết đến lại thấy mấy bàn tài xỉu bày ra ở khu Chợ cũ chứ gì. Đúng. Đúng nhưng chưa đủ. Đó chỉ là loại tài xỉu đã được rút gọn đến mức tối giãn. Còn “nguyên bản” của nó thì phức tạp hơn nhiều. Khác với các loại hình đánh bạc khác , cứ ngồi bệt xuống đất,trãi chiếu ra là chơi dược, tài xỉu được tổ chức bài bản hơn . Trên một chiếc bàn rộng chừng 1.5m dài hơn 3m người ta phủ lên một tấm bạc có vẽ sẵn những ô cờ. Cách chơi rất đa dạng. Trong một cái hộp giống như cái ống đựng tăm xĩa răng bằng thủy tinh cao độ hai tấc có đế bằng gỗ, bên ngoài có nắp dậy kín. Bên trong có 3 hột xúc xắc ( hột xí ngầu ). Người chơi chọn cách mà mình thích. Đặt tài/xỉu thì một trúng một. Từ 3 diểm đến 10 điểm là xỉu. Từ 11 điểm đến 18 điểm là tài. Đặt số thì một trúng mười. Có từ số 3 đến số 18. Đặt số kép thì một trúng 25
Còn đặt bảo ( ba mặt giống nhau ) thì một trúng năm mươi. Người chơi đứng ba phía bàn còn một phía dành cho nhà cái. Người lắc hộp xí ngầu bao giờ cũng là mọt cô gái người Hoa. Trước khi mở nắp, cô luôn bắt đầu bằng mấy tiếng : “ Hối tắc! Hối tắc a!” ( Ý là: Mở đây! Mở đây nè ! )tiếp theo cô xướng lên một câu dài ngoằng, mình nghe véo von nhưng chẳng hiểu gì cả. Cuối câu, lúc nào cô cũng chốt lại : Tài a! hoặc Xỉu a! Ngồi hai bên cô là hai anh chàng hồ lỳ,cũng người Tàu, hai tay khong ngừng vuốt những tờ giấy bạc cho thật phẳng phiu rồi gấp làm tư, sau đó xếp vào một chiếc khay nhôm có nhiều ô theo từng mệnh giá. Mỗi khi kết thúc một ván chơi, hồ lỳ dùng chiếc cào nhỏ bằng gỗ để cào tiền vào hộc bàn hoặc đẫy tiền ra chung cho người trúng. Bạn thấy chưa, cũng khá phức tạp phải không? Và điều cần biết là môn này chỉ có người Tàu mới tổ chức được.

ĐÁNH SỐ ĐỀ

Chơi số đề không phải là chạy ra quẩy vé số hoặc tìm mấy người bán vé số dạo để ghi phơi, và lại càng không phải có tới 100 số dựa theo vé số kiến thiết như hiện nay. Trò chơi này chính gốc của nó chỉ có 40 số, mỗi số có một biểu tượng riêng. Không phải mua lúc nào và mua ở đâu cũng được. Buổi sáng, khoảng 7 giờ, trong một khoảng sân rộng có trồng một cây trụ cũng có dây kéo như trụ cờ, nhưng thay vì lá cờ thì người ta cột vào đó một chiếc hộp nhôm dài độ bốn tấc, bên trong có cài một vuông vải trắng ghi sẵn số và biểu tượng của con đề sẽ xổ trong ngày hôm nay. Đồng thời,người ta cũng đưa ra một câu thai đề. Thai đề thường là bốn câu lục bát bí hiểm. Bí hiểm ở chỗ là nó rất đơn giãn, đoán sao nghe cũng có lý, cũng xuôi tai. Sau đó người ta mới bắt đầu ghi phơi đề.
Buổi chiều, tầm 4 giờ, người chơi tụ tập tại sân đề để chờ khui kết quả. Ai nấy đều chăm chăm theo dõi nhứt cử nhứt động của anh chàng người Hoa. Anh ta thong thả kéo chiếc hộp xuống, tra chìa vào chiếc ổ khóa nhỏ xíu để mở nắp hộp ra. Người chơi nín thở, hồi hộp chờ đợi. Chỉ khi chiếc hộp dược kéo lên đến đỉnh cột trở lại, và vuông vải trắng trãi rộng ra phất phơ trước gió ngưới ta mới đọc dược kết quả. Kẻ khóc người cười. Một người vui, ba mươi chín người buồn khổ. Thế đấy, cờ bạc mà. Đâu có dễ gì ăn của ngoại.

MỘT, HAI, BA MÌNH ĐI XI LA MA


Đi xi la ma là nói đùa cho vui, phải nói cho đúng là đi xi-nê-ma ( cinéma – chiếu bóng ). A, cái này còn phải xét lại đó nghen. Đã nói Dran Xưa chẳng có điện đóm gì sao lại có xi-nê-ma? Thế mà có thật dấy các bạn ạ. Rạp thì các bạn biết rồi , ban ngày là chợ, đêm biến thành rạp. Còn điện thì người ta dùng máy nỗ, không phải cái máy nỗ nhỏ xíu gọngàng như bây giờ mà là một chiếc máy to kềnh càng gần bằng con nghé chứ chẳng chơi. Phim thì toàn là phim cao-bồi, phim người rừng Tarzan cứ chiếu đi chiếu lại… Ở một nơi quê mùa hẻo lánh chẳng có gì giải trí nên thoạt đầu người ta đi xem cũng đông, nhất là bọn trẻ chúng tôi thì mê tít. Thấy tưởng ngon ăn, ông Rô-dân-tan (Rosenthal ) một người Pháp lai đã cho làm một cái rạp hát bằng gỗ ngay trên mảnh đất đã từng là pháp trường ( đài liệt sĩ). Rạp làm xong bỏ đó chẳng ma nào thuê, chẳng đoàn hát nào dám diễn ở một nơi mà không ai muón bước đến.
Sau đó, một rạp chiếu bóng khác,cũng bằng gỗ, được cất lên trên mảnh đất của bà Xu Huy, tức nhà ông Hậu bây giờ. Có điều, cái món xi nê chỉ lôi cuón được bọn trẻ con, còn người lớn lại chuộng cải lương hơn nên chẳng bao lâu cái rạp hát này biến thành một đề pô lê ghim ( dépôt de légumes – Vựa rau,củ,quả ).
Thế là hết xi-nê-ma.


MỘT TRẬN CẦU KHÔNG CÂN SỨC


Là một nam tử hán,đại trượng phu đứa nào mà chẳng mê đá bóng. Tôi đoán rằng, nếu bạn không phải là fan của Arsenal thì cũng là người hâm mộ của Barca hay Manchester United hoặc một đội bóng nào đó. Nếu bạn không thích một C. Ronaldo kiêu ngạo thì cũng mến mộ một Lionel Messi tài hoa hoặc Kaka khéo léo. Và bạn đã chọn một đội bóng yêu thích làm “ Đội mình”. Bạn theo dõi từng đường đi nước bước của “ Đội mình”. Bạn vui nở ruột nở gan khi “ Đội mình” thắng, bạn ỉu xìu như bánh tráng nhúng nước khi “ Đội mình” thua. Đó là những cảm xúc tự nhiên. Nhưng, những cảm xúc ấy sẽ tăng lên bội phần, dữ dội hơn, căng thẳng hơn khi chính bạn là người trong cuộc. Chính bạn mang chiếc áo CLB.BĐ Danhim. Dù chỉ là một trận cầu giao hữu nhưng tim bạn suýt nhảy ra khỏi lồng ngực khi đội nhà sém cháy lưới. Bạn sẽ nhảy cẫng lên như thằng điên khi đồng đội chọc thủng lưới đối phương. Tôi cũng vậy. Tôi cũng yêu bóng đá, yêu cuồng nhiệt. Cái “ Ecole de Dran” cũng có một đội bóng tí hon. Toàn một lủ trẻ con chia phe đá với nhau chứ chưa bao giờ thi đấu với ai. Thế mà, đùng một phát, chúng tôi đi tranh giải. Một giải bóng đá chính thức để chào mừng ngày lễ Quốc khánh 14.07 ( của Pháp ) đấy nhé!

Tôi chẳng hiểu Ban Tổ Chức gồm những ai, chuyên môn như thế nào nhưng chắc chắn là trình độ của họ hơn FIFA nhiều lắm lắm. Điều này tôi căn cứ vào lịch thi đấu mà nhận xét. Chẳng biết họ chia cái thế quái nào mà đội bóng bé tí teo của chúng tôi phải đấu loại trực tiếp với trường Grân-Lítxê Iêcxanh ( Grand Lycée Yersin ). Ờ, để tôi kể thêm cho các bạn nghe nhé. Lycée Yersin là một ngôi trường THPT Pháp, danh giá bậc nhất Việt Nam thời bấy giờ. Về mặt kiến trúc thì nó cùng với ga Dalat được xếp vào hàng đầu Đông Nam Á. ( Vậy mà Dran xưa cũng có mấy người được theo học ở đó như : Lâm Văn Thanh, Mai Văn Thịnh, Nguyễn Hữu Tranh, Cao Lan. Ở Petit Lycée thì có Lâm Thái Song. Trong số này chỉ có N.H.Tranh là học đến nơi đến chốn). Trở lại với đội bóng trường làng của chúng tôi. Một lủ nhóc quanh năm đá bưởi khô nhiều hơn đá bóng, được trang bị áo may-ô ( maillot ) trắng, quần đen chẳng có số má gì lên tận Dalat thi đấu. Bạn thử hình dung xem, học trò tiểu học chơi tay đôi với bọn trung học mà phần đông là Tây con thì sẽ thế nào? Kết quả ư? Cái bọn trông to thế mà đá quá tệ, tụi nó chỉ ghi được có 9 bàn mà thôi. Còn bọn tôi thì sao? Thua 0-9 mà mặt mày đứa nào đứa nấy cứ tươi roi rói, cười nói ồn ào như chưa có gì xảy ra. Mà thực ra là bọn tôi thắng đậm. Thì các bạn nghĩ coi :
- Làm sao một bọn trẻ nhà quê lại được ngồi ô tô rong chơi tận thành phố?
- Làm sao mà có dịp được ăn phở và cơm gà phủ phê suốt ngày như thế?
- Làm sao mà có thể tham quan thắng cảnh Dalat mà không tốn một xu nào?
Như vậy là thắng đậm chứ có thua đâu, Và khi xe về đến đầu dốc chùa, tất cả cùng hét vang: Nớp – Dêrô! Nớp – Dêrô! ( Noeuf – Zéro 9-0 ). Gần như cả làng đều xách đèn đuốc ra đón “ đoàn quân chinh chiến” trở về và ai cũng đinh ninh “ Đội mình “ thắng lớn. Hóa ra là thua. Ồ, có sao đâu, đó chỉ là một trận cầu không cân sức thôi mà.

LamNguyen

Dran xưa : Chuyện nhớ đâu kể đó





Tôi vẫn còn tha thiết muốn kể chuyện Dran xưa. Các bạn biết không, thực lòng mà nói, cái trí nhớ của một U75 nó rất chi là tồi tệ, chợt nhớ chợt quên như trời chợt mưa chợt nắng. Đó cũng là cái lý do vì sao tôi cứ mãi phân vân, do dự trước khi viết loạt bài Dran Xưa. Rất vui khi bài viết được các bạn nhiệt tình đón đọc. Riêng tôi, mỗi khi đọc lại vẫn chưa thấy hài lòng. Nó thiêu thiếu thế nào ấy. Thì ra,cái trí nhớ khốn khổ của mình đã bị thời gian bào mòn một cách khủng khiếp. Tỉ như, lứa học sinh đầu tiên của Thiên Mẫu, lẽ ra phải nhắc đến Lâm Tuyết,Hồ Thị Kim thì mình lại quên bén đi. Tỉ như, chuyện đánh nhau với bọn “giặc Tàu” đâu phải chỉ đơn giản cầm ná thun rồi bạ thứ gì cũng lượm lên làm đạn. Không, không phải thế đâu! Muốn bắn tốt phải có đạn tốt; muốn có đạn tốt phải vất vả lắm chứ. Trước tiên phải tìm một miếng đất sét loại tốt,thêm tí nước vào rồi nhồi cho thật nhuyển, lăn cho miếng đất sét thành hình một sợi dây dài rồi ngắt ra từng miếng, vo tròn lại như viên bi sau khi đã cho vào giữa một viên muối hột,sau đó đem phơi một nắng. Chẳng biết ai bày ai biểu là cho một viên muối hột vào giữa thì “thương tích” sẽ trầm trọng hơn. Không hiểu tác dụng thực hư ra sao nhưng đúa nào cũng làm. Chi tiết quan trọng như thế mà cũng quên. Đã trót thì phải trét. Đã kể thì phải kể cho đàng hoàng, tử tế. Cố nhớ thêm một tí nữa xem sao. Và mình xin tiếp tục : ‘ DRAN XƯA, CHUYỆN NHỚ ĐÂU KỂ ĐÓ…’ Đã gọi là nhớ đâu kể đó thì nó không thể theo trình tự thời gian. Câu chuyện sẽ thiếu mạch lạc, đọc nghe tưng tức. Những mẫu chuyện riêng rẻ, cái này chẳng dính dáng đến cái kia lại có phần khô khan nhưng mong các bạn hãy chấp nhận như thế vì dẫu sao nó vẫn là một phần trong cuộc sống của Dran thuở ấy. NÀO, MÌNH CÙNG VÀO CASINO. Thôi đi, lại còn casino, cứ làm như Dran là Las Vegas không bằng. À, mà ở Đồ Sơn cũng có casino đấy chứ. Nhưng cái casino này chỉ dành cho khách du lịch nước ngoài và một số đại gia mà thôi. Còn casino của Dran thì khác. Ở đây không có sự kỳ thị. Nam phụ lão ấu đều vào tuốt miễn trong túi có tiền. Từ ông công chức cho dến kẻ bạch dinh đều bình đẳng trên chiếu bạc. Các bạn còn nhớ nhà sách Kim Hoàng không? Đó, chính chỗ đó, trước kia là một ngôi nhà tranh khá rộng. Trước nhà treo lơ lửng tấm bảng : Me-dông Com-muy-nan (Maison Communale-nhà công, nhà việc hoặc nhà làng). Đó là nơi hương chức hội họp khi cần. Trong căn nhà rộng thênh thang ấy chẳng có gì ngoài một chiếc cùm bằng gỗ đủ chỗ cho bốn tay đạo chích tra chân vào cùng một lúc. Chẳng thấy ai sử dụng nó bao giờ. Người ta khiêng nó để sát vào vách và căn nhà trờ thành một sân chơi rộng rãi có thể chứa hơn trăm người. Tôi đồ rằng, ít nhất là một lần trong đời, bạn đã nghe câu:” Thua me gở bài cào”. Bài cào thì rõ rồi, cái thứ bài ba lá cứ đếm nút ăn tiền, nhứt ba tây nhì chín nút thì ai mà chẳng biết. Thế còn thua me là thua làm sao? Me là cái gì? Khi nào thì thua? Cứ từ từ. Từ từ. Me là…me, cái thứ trái cây chua lè mà bọn con gái thèm nhỏ giải ấy mà. Chính xác hơn, me là hột me. Những hột me được lựa chọn kỷ, đều tăm tắp, màu cánh gián, bóng loáng. Cả một đống dễ chừng hơn hai trăm hột. Để chơi me phải có chiếu me. Gọi là chiếu nhưng thực ra là một loại vải bố dày phủ lên lớp sơn trắng, trên đó người ta vạch hai đường chéo đen thành một dấu nhân ( x ) chia mặt vải thành bốn ô. Mỗi ô mang một tên: Tam, Túc, Yêu, Lượng, tương ứng với l, 2, 3, 4 hột. Để rộng rãi và thuận tiện cho người chơi, người ta làm chiếu kép, nghĩa là trên cùng một khổ vải dài người ta vẽ hai bàn chơi. Trải chiếu ở dưới, phủ tấm vải lên trên, thế là ta bắt đầu chơi được rồi. Trước khi cược tiền, chủ cái dùng một cái que gạt bằng tre ( Bạn thấy cái dao cạy bánh căn rồi chứ? Cái que gạt có hình dạng na ná như thế nhưng thanh hơn, phần tay cầm dài hơn, phần để gạt rộng hơn và hơi cong lại một chút) gạt từ đống hột me ra phía trước một số hột me vô chừng, có thể là năm, bảy chục hột gì đó. Khi các con bạc cược tiền vào ô mình ưa thích xong, chủ cái dùng que gạt để đếm hột me. Cứ mỗi lần gạt 4 hột rồi lùa vào trong cho đến lượt cuối cùng chỉ còn lại 4 hột trở xuống. Nếu thừa 1 hột là Tam, 2 hột là Túc, 3 hột là Yêu, 4 hột là Lượng rồi căn cứ vào đấy mà chung tiền. Nhà cái ăn ba cửa chung một cửa. Người ta nói cờ gian bạc lận nhưng với đánh me thì không cần thiết. Chỉ nhìn vào cái tỉ lệ ba chọi một không chột cũng què. Khi nhà cái nắm 75% lợi thế thì người chơi chỉ còn một nước:”Từ chết đến bị thương”. Thôi, mời các bạn ghé qua sòng tài xỉu một chút. (còn tiếp)

Bà Bích Liên , chủ nhân chiếc radio Philips
Giáo viên Trường Tiểu Học Cộng Đồng Đơn Dương


Dran xưa : bà BÍCH LIÊN và triết lý "Hết "

Nói đến Bà Bích Liên không phải tôi nhắc dến cái “triết lý hết” của Bà. Câu kinh nhật tụng của Bà là: Vui hết hết vui.Buồn hét hết buồn. Đau hết hết đau. Khóc hết hết khóc`…Đó chỉ là câu nòi bình thường để chia sẻ cảm xúc nhưng ngẫm lại nó dã trở thành mmột triết lý sống. Cái gì khi đã đến mức cùng cực thì tự thân sẽ điều chỉnh. Thì bạn cứ thử khóc đi. Khóc hu hu,khóc tồ tồ,khóc thật tha thiết,thật thê thảm vào, Không ai dỗ dành,không ai can ngăn cũng chẳng ai giúp đỡ.Tư nhiên bạn nín bặt. Rồi bạn tự nghĩ sẽ làm một cái gì khác hơn là khóc…Nhưng nói như vậy không có nghĩa là tôi muón quảng bá cho cái triết lý trời ơi ấy mà tôi muốn nói nhỏ vào tai các bạn: Nhà bà Bích Liên có cái Ra-dô (Radio).
Ngày nay,nhà nào mà chẳng có Ti-vi,cát-xét (TV-Casssette),bạn nào mà chẳng có diện thoại di động,Ipod cho nên cái sự nghe nhìn chẳng đáng trân trọng là mấy,chứ còn cách đây trên 50 năm,khi mà công cụ nghe nhìn chỉ đếm trên đầu ngón tay thì có được một cái radio là “ác chiến” lắm. Đó là cái radio hiệu Phi-lip Hà-lan (Philippe Hollande) xài bằng bình ắc-quy,thương hiệu bảo đảm chất lượng. Âm thanh cực tốt. Mở đài Pháp-Á nghe giọng Thái Thanh tha thiết với những bài tình ca cùa Phạm Duy hoặc giọng hài hước của Trần Văn Trạch với nhạc phẩm “Hòa bình 48;Tai nạn chiếc Téléphone” thật thích thú vô cùng.(Mấy ai biết Trần Văn Trạch là em ruột GSTS Trần Van Khê)
LỄ LẠC HỘI HÈ
Nghỉ lễ sướng lắm,một năm không dưới 20 ngày nghí. Nghỉ mà chẳng phải học bù học biếc gì cả mới đã chứ. Trước 1954 ngưới ta chỉ quan tâm đén lễ Noel,lễ Phuc sinh,nhất là lễ Chánh chung 14/7 (lể Quốckhánh Pháp). Trong ngày đại lễ này,người ta tổ chức tài sân vận động nhiều trò chơi hấp dẫn như: Đập ấm,bịt mắt bắt vịt,phóng phi tiêu,ném lon nhưng lôi cuốn nhất là trò Leo cột mỡ. Một cái trụ tròn ccao độ 3m được bào nhẵn rồi bôi đầy mỡ,trên đầu cột kết một vòng tròn treo lủng lẳng nhiều món quà có giá trị,ai leo lên đến nơi cứ thoải mái lấy,nhưng chẳng dễ ăn chút nào…Từ 1955 về sau,những ngày lễ Phật Đản,Vu Lan và Tết Trung thu được nhiều người hưởng ứng,nhất là ngày Phật Đản,người ta nô nức về chùa. Không nhất thiét phải là phật tử,họ dến xem lễ rồi ăn uống tự do,miễn phí. Ăn xong,dạo chơi một lúc,trở vào ăn nữa cũng chã sao. Ăn chùa mà!
CẢI LƯƠNG VỀ LÀNG
Tụi bây ơi,đi coi cải lương…Tiếng gọi nhau ơi ới. Cứ năm,ba tháng lại có một đoàn cải lương đâu từ mãi miền Nam xa tít dạt về. Cả cái xóm quê cứ như sôi lên sùng sục. Đoàn hát trú ngay tại chợ. Hằng ngày,sau khi chợ tan,họ dùng tôn quây quanh che chắn lại biến chợ thành rạp hát. Ai cũng mong mau đến tối để xem,nhất là lũ nhỏ chúng tôi háo hức lắm! Buổi chiều,tầm bốn rưỡi,năm giờ,một chiếc xe ngựa chở một lô đào kép đã trang điểm diem dúa,y phục sặc sỡ chạy quanh một vòng thị trấn để quảng cáo. Tiếng trống,tiếng phèng la inh ỏi lôi cuốn sự chú ý của mọi người. Để được vào xem thì thứ nhất là được cha mẹ dẫn đi,mua vé trẻ em đàng hoàng.Thứ hai là đợi tuồng hát được một lúc thì tìm cách vạch lổ chi vào. Còn vào một cách quang minh chính đại như bọn tôi là phải đổi sức “lao động”của mình. Tức là đợi chiếc xe ngựa quảng cáo trở về,chúng tôi nhận chiếc trống rồi thay phiên nhau dánh cho đến lúc tuồng hát sắp mở màn. Bấy giờ,bốn thằng khệ nệ khiêng chiếc trống (mà một đứa vác cũng dược)vào cửa chính đàng hoàng. Cũng đôi khi đón hụt vì có bọn khác giành trước,bọn tôi cũng phải dùng hạ sách. Thật đúng là nhất quĩ nhì ma.
Tôi vừa đưa các bạn đi một vòng Dran xưa,kể ra cũng mướt mồ hôi đấy chứ! Dran xưa là thế đó. Cuộc sống thô mộc của Dran cứ nhẹ nhàng trôi…
LỜI NÓI THÊM;
- Trong bài,tôi có dùng nhiều cụm từ tiếng Pháp,xin dừng vội cho tôi là sính ngoại. Chẳng qua,thời bấy giờ ai cũng làm như thế,nói như thế. Tôi muốn dược giữ nguyên bản sắc của nó. Chẳng phải ngày nay,các bạn cũng luôn miệng: Yes yes No no. I am sorry đó sao?
- Bài viết hoàn toàn theo trí nhớ lại càng không mang chất sử liệu,tất nhiên có đôi chỗ thiếu chính xác. Vì vậy,nếu biết rõ hơn,bạn hoàn toàn có quyền tự sửa chữa hoặc góp ý. Hy vọng đã cung cấp được cho các bạn đôi điều về Dran xưa và nếu các bạn là người trong cuộc,tin rằng các bạn sẽ có dược những kỷ niệm xưa ùa về. Bằng không,thì nói như Nguyễn Du ::”Mua vui cũng được một vài trống canh”. Cám ơn,chào tạm biệt.

- LAM NGUYEN




Gia đình phật tử diễu hành Lễ Phật Đản

Dran xưa : đi lại , sinh hoạt như thế nào ?

Để dịch chuyển từ nơi này đến nơi khác,phương tiện tốt nhất là…đi bộ. Vâng,đi bộ là chính. Dran-Tram hành,Dran-Eo gió,Dran-M!Lon …đi bộ tất. Hàng hóa,rau củ được chở bằng xe bò,xe trâu. Riêng vùng Lạc xuân có được mấy chiếc xe ngựa,đặc biệt xe ngựa cùa ông Lân (ba của Hồng Minh Tâm) hoạt động rất tốt. Tại Dran có xe ngựacủa ông Hai Phách,chỉ một xe mà có đến ba con ngựa thay dổi. Nếu bạn dẻo miệng một chút,buổi trưa có thể cùng người nhà của ông cưỡi ngựa đi tắm,trông cứ như “cowboy” xứ viễn tây ấy chứ. Còn đi xa thì sao? Bạn biết không,cái quảng đường 36km Dran-Dalat đó,ngày nay các bạn chỉ cần leo lên Honda làm cái vèo mất chừng ba lăm,bốn mươi phút là xong,thế mà xưa kia….
Xuất phát từ Dran có chiếc xe Ford đầu bằng của ông Tư Soạn,khởi hành lúc 8h thì 12h mới đén Dalat,vị chi mất bốn tiếng. Buổi trưa,từ Dalat có chiếc xe Dodge cà tàng của bà Thái chạy xuống,thời gian cũng vậy. Ai đi xe sáng thì có thể về trong ngày,nếu đi xe trưa phải ở lại đến hôm sau. Ngoai ra,phải kể đến xe lửa. Ta có thể đi Saigon bằng xe lửa, 18h hôm nay đi,06h hôm sau đến Saigon,mất 12 tiếng. Chắc hẳn vì giao thông khó khăn như thếnên nhiều người suốt đời chỉ quanh quẩn trong xóm,trong làng. Cũng có vài gia đìnhsắm được xe đạp. Xe đạp rất quý,nó được chủ nhân chăm sóc cẩn thận,mỗi khi đi đâu về đều được lau chùi ngay rồi treo lên hai cái móc sát tường. Chiếc xe đạp mà tôi thích nhất là chiếc xe của anh chàng Tranh (anh của Nguyễn Hữu Đô).Đó là chiếc xe đòn dông mini dành cho lứa tuổi “teen”.
Tranh là người tốt bụng,chiều nào cũng dắt xe ra ngã ba,không phải để khoe mà để cho chúng tôi luân phiên mỗi đứa đi một vòng. Mấy đứa lèng xèng thì leo lên đạp một lèo đến cầu Lạc thiện thì phải quay lại để đến phiên đứa khác. Còn mấy tay kiện tướng lại chổng mông đạp lên dốc,đến ssau chùa quay lại xổ xuống,buông hẳn tay lái,hai tay khoanh trước ngực trông rất “ấn tượng” nhưng cũng lắm phen lổ mũi ăn trầu,đầu bịt khăn đóng.
Mãi đến những năm đầu thập niên 60 mới xuất hiện xe máy. Chiếc xe đầu tiên là chiếc Suzuki 50 của Nguyễn Hữu Châu (anh Nguyễn Hữu Đô).Xe mới đem về,mọi người tò mò xúm quanh ngắm nghía,sờ soạng. Một anh chàng muốn thử nhưng vừa ngồi lên mới rồ ga một cái thì chiếc xe đã trở thành con ngựa chứng bất kham hất văng xuống đất…Thế là ai nấy cũng nhìn chiếc xe như con quái vật,nên”kính nhi viễn chi” (Đói với quĩ thần ta kính trọng nhưng nên tránh xa).
BÌNH MINH THƯ QUÁN 1960
Có một nhóm trai trẻ,cùng chí hướng,chung sở thich yêu văn thơ cùng nhau kẻ góp công,người góp của lập nên một hiệu sách lấy tên là Bình Minh Thư Quán,cơ sở là căn nhà của bà Trùm Kiến (nhà của Nguyệt Bê ).BMTQ không có bán sách giáo khoanhư các hiệu sách bây giờ mà chỉ bán các loại sách văn học,phần nhiều là các tác phẩm của nhóm Tự Lực Văn Đoàn và các loại báo chí.
Vốn rộng rãi,dễ tính và sống phóng khoáng nên BMTQ không tồn tại được lâu. Sách báo ban đầu thì bán,rồi bán chịu,rồi cho đọc tại chỗ và cả cho mượn mang về nhà nên chỉ cầm cự đến tháng thứ ba thì BMTQ sập tiệm. Nhưng dù ssao,bọn chúng tôi vẫn tự hào mình là những người đầu tiên mở ra một điểm sáng văn hóa cho Dran xưa. Nhờ đó mà nhà sách Kim Hoàng mạnh dạn tiếp bước. Kim Hoàng là con gái thứ năm của ông Ích. Mình phải rề rà chỗ này một tí nhé. Nhắc đến Dran xưa mà không nhắc đến gia đình ông Ích là một thiếu sót. Nói không ngoa,đây là một danh gia vọng tộc. Ông Đỗ Hữu Ích là một Mê-đơ-xanh (Médecin-Thầy thuốc).Ông quản lý nhà thương Dran. Tuy chỉ la Médecin nhưng chuyên môn của ông không kém gì bác sĩ,ngoài ra ông còn là một cây tiếng Pháp. Điều đó cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Điều đáng nói ông là người có nhiều đóng góp cho đời sống văn hóa ở địa phương này. Ông bỏ tiền ra xây dựng một nhà Xẹt (Cercle sportif,trong đó có để mấy cái bàn banh-bong (pingpong – bóng bàn),chung quanh co treo,đặt nhiều tranh,tượng. Phía cuối là một sân khấu cố định. Vài ba ngày lại có một buổi phát thanh đọc vài tin tức địa phương rồi hat mấy bài tân nhạc. Tôi cam đoan,nếu các bạn nghe anh Trương Lài (ba của Huệ Dũng) hát loạt bài Hòn Vọng Phu cùng tiếng đàn Banjo và Mandoline phụ họa thì chắc chắn các bạn sẽ xem Mr Đàm Mr Điếc gì đó chẳng là cái đinh rỉ gì cả. Thỉnh thoảng lại còn diễn kịch,lúc nào ông cũng đảm nhận một vai. Bạn có muốn biết ai là diễn viên xuất sắc không? Tuy là nghiệp dư nhưng họ tập tành công phu,diễn xuất ăn ý. Diễn viên được mọi người ưa thích là ông Sáu Sự (ba của Lê Xuân Thọ,Thông)và bà Mai (chị của bà Liểu Thọ).
Thôi thôi,mình trở lại nhà sách Kim Hoàng. Nhà sách này rộng lớn hơn Bình Minh Thư Quán. Ngoài sách báo,dụng cụ văn phòng còn có bán thêm nhiều thứ linh tinh khác. Sau một thời gian dài,không hiểu nguyên nhân nào khiến nhà sách Kim Hoàng bỗng dưng ngưng hoạt động. Và thế là,Dran xuất hiện sạp báo Huỳnh Phi Lan.
(còn tiếp)


Ông Đỗ Hữu Ích trong ngày Lễ Khánh thành Trường Bồ Đề



































Múa

Đường lên sơn cước

Dran xưa : -Trường Trung học Đơn Dương và Giáo sư Đại



Trước 1960 học xong bậc tiểu học,nếu muón đi học tiếp và gia đình có diều kiện các bạn phải di Dalat,Phanrang hoặc Saigon. Còn lựa chọn thứ hai,có thể phù hợp với kinh tế gia đình hơn,là học trường tư thục Bồ Đề hay trường Thiên Mẫu. Mình dừng một chút để tìm hiểu về trường Bồ Đề. Tiền thân cua trường Bồ Đề là Quan Âm Học Hiệu chỉ có đến lớp Ba tại chùa Giác Hoàng.
Đến 1958 sau khi mãn hạn tù từ Chí Hòa về,ông Vương Văn Dậu,một phật tử thuần thành phát tâm cho mượn nhà riêng của ông để làm trường. Nói là nhà riêng nhưng thực ra gia đình ông sống ở ngôi nhà tranh lùi về phía sau,cón ngôi nhà rộng rãi vách ván lợp tôn (nhà bà Bi đối diện nhà ông Sửu)được dùng làm thư viện Thiện Đạo,một thư viện của riêng ông nhưng ai muón vào xem cũng dược.
Lứa học sinh đệ thất (lớp 6) đầu tiên cùa trường Bồ Đề là Hoa Dậu (mẹ của Thy Dân),Huệ Thêm (mẹ của Khánh Linh,Thảo Linh). Còn lứa học sinh đầu tiên của Thiên Mẫu có Nguyễn Tường Lân (bố của Khoa,Quỳnh),Hoang Ngọc Nhất (bố của Khoa,Quân)…
Mãi đến năm học 1960-1961 Trường Trung Học Đơn Dương mới chính thức được thành lập.Gọi là trường cho ra vẻ chứ chỉ tuyển sinh một lớp Đệ thất với 50hs. Trường nhưng chưa có trường. Trường phải mượn một phòng học của trường Bồ Đề để làm nơi giang dạy (phòng bìa sát nhà ông Bảy Cháu).
Lứa hoc sinh đệ thất này có mặt Vương Ngọc Liên,Lâm Dung,Hồ Hương,Ngọc Hạnh…Bên nam thì có Ngô Đình Phúc,Vương Tấn Được,Nguyễn Tuấn Thành,Hòang Chính,Trương Văn Lượng….
Ở trên,tôi có nhắc đến giáo sư Đại. Các bạn cần biết, trước 75 những người giảng dạy cấp Trung học trở lên đều được gọi là giáo sư. Lúc bấy giờ giáo sư không phải là học hàm. Giao sư Đại,gọi đầy đủ là Đặng Đình Đại người Hà nội,dáng người cao ráo,thon thả có thể coi là “bô” trai. Điều này cũng là một cái cớ để bọn nữ sinh cứ chụm đầu rúc rích khiến thầy lắm phen đỏ mặt. Giáo sư Đại dạy tất cả các môn chính vì trường chỉ có một giáo sư. Trường còn có Bốn giáo sư hợp đồng để dạy các môn ngoại khóa. Sau này chỉ còn lại bà Phan Thị Hiệp (bà Thanh Huyền) tiếp tục dạy môn Nữ công Gia chánh.
Sang năm học thứ hai,trường có thêm lớp Đệ lục (lớp 7),bây giờ lại phải mượn thêm phòng học mới,đó là gian phòng rộng nhất của Đình Canrang,được sửa sang,che chắn lam lớp học. Trường cũng đón nhận thêm một số giáo sư mới,đó là các cô Ái Thanh,Diệu Thanh…Thầy Diêu Xương Thủ. Qua năm học thứ ba,thêm lớp Đệ ngũ (lớp 8) mới có ngôi trường đàng hoàng được xây dựng trên đồi cao (chùa Thầy Hướng). Trường Trung Học Đơn Dương chính thức chấm dứt kiếp ăn nhờ ở đậu. Vị Hiệu trưởng chính thức và đầu tiên của Trường TH Đơn Dương là thầy Lê Thành Phúc. Sau một thới gian,thầy Phúc chuyển về Dalat thì hiệu trưởng kế tiếp là thầy Phùng Quyên.
Ngẫm buồn cười,lúc bấy giờ người ta chọn xây trường trên đồi cao chỉ vì sợ…vỡ đập Danhim. Không biết,nếu vỡ đập dân toàn thị trấn trôi tuốt tuồn tuột thì cái đám bồ chao còn lại trên đồi sẽ sốg với ai nhỉ?
CÒN VUI CHƠI THẾ NÀO?
Dran xưa không có điện. Cái thứ ánh sáng kỳ diệu đó chỉ xuất hiện nam 1960 khi khởi công xây dập Danhim. Hầu hết sử dụng đèn dầu. Một số gia đình khá giả,các hiệu buôn thì dùng đèn măng-sông (manchon). Đèn manchon rất sáng nhưng khá hao dầu. Không có điện dẫn theo okhông có nhiều thứ lắm. Mức sống của người dân rất thấp,chẳng ai hơi đâu chú trọng đến đời sống tinh thần. Sách báo, ti-vi,cửa hàng giải trí hoàn toàn không nhưng chẳng vì thế mà cuộc sống của chúng tôi kém thú vị đâu,ngược lại là khác. Ban ngày,ngoài giờ học,phần thời gian còn lại là rủ nhau đi bắn chim,bơi lội. Có thể nói con sông Danhim khi chưa có đập,nước trong vắt,mát lạnh,bọn chúng tôi suốt ngày ngụp lặn,câu cá suốt từ La Bá cho đến Lạc Quảng. Thỉnh thoảng mấy tay Sửu,Lan mập chẳng biết moi đâu ra một quả mìn thì đi bắn cá. Vài tay lớn tuổi nhu7 Minh Châu,Phùng,Trình cũng tham gia. Bắn cá thích lắm. Gọi là bắn chứ thực ra chỉ ném quả mìn xuống nước,đợi một lúc sau tiếng nỗ vang lên,cá nỗi lên trắng xóa. Những chú cá hồng nhao đuôi đỏ nặng gần cả cân. Cái thứ hồng nhao này mà nấu chao thì…tuyệt cú mèo! Những đêm có trăng thì rủ nhau chơi u mọi, chạy bắt cứu tù…
Nhưng,cái trò chơi gay cấn,hấp dẫn nhất lại là…đánh lộn. Đừng vội tưởng là chúng tôi đánh nhau nhé. Đây là đánh lộn có tổ chức,hầu như đã đánh là trúng chứ chẳng lộn gì cả. Co lẽ,chịu ảnh hưởng của những giờ học sử,cái môn học mà phần đông các bạn cho là khô khan khó nuót,với chúng tôi,đó là tiết học mà chơi vô cùng thích thú. Gần như bài nào cũg vậy,tứ Cờ lau tập trận,Lý Thường Kiệt phá Tống bình Chiêm,Hưng Đạo chống Nguyên,Lê Lợi khởi nghĩa…Thầy tôi đều chế biến,biên tập thành những kịch ngắn. Bọn học trò chúng tôi được phân vai diễn. Được chuẩn bị trước,đứa nào cũng làm gươm dáo bằng tre nên lúc trình diễn cũng ra vẻ lắm. Rồi khong biết từ lúc nào,bọn chúng tôi căm thù bọn giặc Tàu,giặc Tây,và thế là…đánh lộn. Dran xưa chỉ có chừng ba,bốn thằng Tây con. Bọn chùng sợ chúng tôi như sợ cọp. Mỗi lần chạm mặt,chỉ cần hù dọa là chúng đã chạy vãi đái ra rồi. Thực ra,chúng tôi cũng không dám đánh tụi nó vì chúng là Tây mà,đụng vô mệt lắm. Riêng với bọn Tàu thì hơi chăm. Bọn này tổng cộng chừng mười mấy tên,nhưng dược cái chúng ở tập trung hai dãy phố chính,chỉ cần ới lên một tiếng là cả bọn tiếp cứu cho nhau nggay. Còn chúng tôi tuy đông nhưng ở rãi rác,có hẹn trước mới tập trung đông đủ được. Vì vậy cuộc chiến cứ cù cưa bất phân thắng bại. Ta thắng nhiều hơn địch nhưng cũng không hiếm đứa bị u đầu sứt trán. Đến một lúc,tự nhiên…giã từ vũ khí.
(còn tiếp)


Lễ khánh thành trường bồ đề

Dran xưa -Ngôi trường Tiểu học đầu tiên – pháp trường và thầy giáo tử tù

Sau chiến tranh,đến năm 1947 lủ trẻ con ở Dran được tập trung lại cho đi học. Học nhưng chưa có trường. Chính quyền lúc bấy giờ mượn ngôi nhà của ông Tư Độ (nhà ông Nghiệp,đối diện trường Ngô Gia Tự).Ngôi nhà gỗ nền đất lợp tôn dược cơi nới kéo dài thêm ba lớp về phía Lữ quán. Ông Tư Độ thuộc dạng cây đa cây đề của Dran xưa. Chẳng những cho mượn nhà mượn đất mà còn giúp đỡ nhiều cho trường trong thời kỳ phôi thai. Cổng nhà thành cồng trường mang bảng hiệu “Ecole de Dran”.Thoạt đầu trường co ba lớp: Cua Ân-Phân-tanh,Cua Prê-pa-ra-toa vua Cua Ê-lê-mân-te (cours Enfantin,cours Préparatoire et cours Elémentaire –lớp 1,lớp 2 và lớp 3).
Thời ấy,nam công chức và giáo viên đều mặc âu phục. Thế mà,thầy giao dạy Cours Enfantin quanh năm mặc chiếc áo dài đen bạc phếch,đó là Thầy Giáo Khuông. Thầy Khuông vóc người nhỏ thấp,da ngăm đen,gương mặt khắc khổ chỉ có đôi mắt sáng một cách kỳ lạ.
Một hom,trong lúc học trò đang chăm chú làm bài bỗng có tiếng xe dừng trước cổng trường,hai tên mật thám Pháp vào thẳng lớp l,còng tay rồi đưa thầy đi mà chẳng cần nói mmột lời trước sự ngơ ngác của cả trường.
Pháp trường? Dran từng có một pháp trường. Các bạn muốn hỏi pháp trường ở đâu hả? Thì ngay trước tầm mắt các bạn dấy thôi,gần gốc cây nhản cổ thụ,chính xác hơn là ngay chỗ Đài Liệt sĩ bây giờ đó.
Buổi sáng ngày xử bắn,từ sớm tinh mơ bọn lính Pháp đã vào từng nhà lùa đồng bào ra tập trung tại ngã ba,ai không đi không được,ra để bị xem. Trên khoảng đất đó,ba cái trụ đã được dựng lên đâu từ đêm hôm trước. Ba người đàn ông tiều tụy,rách rưới bị trói vào cột,mắt bịt băng vải đen. Một loạt súng vang lên,ba con người gục xuống trong đó có Thầy Khuông,Thầy Giáo của trường tôi. Thầy đã chết vì Thầy là Việt Minh . Còn hai người kia là ong Kiểm Kĩnh (ba của cô Đào Minh Lý)và ông Xã Huy.
Bây giờ trở lại ngôi trường nhỏ nhé! Theo tời gian,ngôi trường tuần tự được mang các tên như sau:
- Ecole de Dran
- Ecole Primaire de Dran
- Ecole Primaire Complémentaire de Dran
- Trường Tiểu Học Cụ Thể Dran
- Trường Tiểu Học Đơn Dương
- Trường Tiểu Học Cộng Đồng Đơn Dương
Thoạt đầu,trường chưa có hiệu trưởng. Hiệu trưởng kiêm nhiệm là Thầy Đào Hữu Hanh làm việc tại quận hành chánh. Qua niên khóa sau mới có hiệu trường chính thức là Thầy Ngô Văn Sòng. Thầy Sòng dáng to cao,mạnh khỏe. Thầy nói tiếng Pháp rất giỏi. Vừa là hiệu trưởng vừa phụ trách Cua Mo-den l (Cours Moyen 1 année –lớp nhì nhứt niên). Ở trường,Thầy là người nghiêm khắc nhưng khi ra sân bóng Thầy rất cởi mở. Chơi ở vị trí hậu vệ cùng với ông Châu Hải(bố của bà Lễ Ký) đó là hai hậu vệ nỗi tiếng trong đội bóng hỗn hợp Pháp Việt. Thầy chiếm được sự tín niệm của đồng đội cũng như sự quý mến của người hâm mộ.
HỌC TRÒ DRAN XƯA HỌC HÀNH,THI CỬ RA SAO?
Chuyện học hành thoật vô cùng thoải mái. Thời khóa biểu sáng: 08h-10h30. Chiều: 14h-16h30. Ngày hai buổi cắp sách đến trường.Học thì ít mà chơi thì nhiều vì thời gian rộng rãi quá.Chúng tôi học chương trình song ngữ Pháp Việt. Tiếng Pháp là chính,tiếng Việt ít thôi. Nói thì nnói vậy chứ thức ra chúng tôi học rất nhiều môn,để tôi liệt kê ra các bạn xem thử nhé!
CÁC MÔN HOC;
- Arithméthique - Số học
- Géométrie - Hình học
- Problème -Tính đố
- Dictée - Chính tả
- Dictée VN - Chính tả tiếng Việt
- Rédactiion - Làm văn
- RédactionVN - Làm văn tiếng Việt
-Vocabulaire -Ngữ vựng
- Grammaire - Ngữ pháp
- Lecture - Tập đọc
- Lecture VN - Tập đọc tieng Việt
-Lecture récréative - Tập đoc giải trí(cuối tuần)
- Histoire – Géographie - Sử-Địa
-Elément de science - Khoa học
- Morale - Luân lý
- Hygiène - Vệ sinh
- Instruction Civique - Công dân
- Agriculture - Trồng trọt
- Ecriture - Tập viết
- Caractères chinois - Chữ Hán
- Travail manuel -Thủ công
- Dessin à vue - Vẽ nhìn đồ vật
- Dessin à ligne -Vẽ theo dòng
- Dessin fin de la semaine - Vẽ cuối tuần
- Education physique - Thể dục
Các bạn thấy chưa,học sinh lớp năm mà học như thế hơi “bị” nhiều phải không? Thế nhưng bọn chúng tôi chẳng thấy vất vả gì lắm. Thầy dạy tận tâm,trò học chăm chỉ nên dù chỉ lớp nămnhưng học trò thời bấy giờ đã được trang bị một lượng kiến thức tồng quát tương đối tốt. Một số có thể viết thư thăm hỏi hoặc làm đơn xin việc bằng tiếng Pháp.
Thích nhất là tiết hoc Tập đọc giài trí. Tùy theo bài, Thầy cho học sinh luân phiên đóng vai các nhân vật trong chuyện,đàm thoại bằng tiếng Pháp. Chỗ nào sai Thầy cho dừng lại để sửa cách phát âm. Có lẽ nhờ vậy mà học sinh trường tôi khá hơn các trường khác.
Còn chuyện thi cử cũng bình thường,thi hầu hết các môn đã học. Mỗi năm thi hai đợt: Đệ nhất và Đệ nhị Lục cá nguyệt. Điểm thi hai học kỳ dùng để xxếp hạng cuối năm.
KỲ THI RI-ME ( PRIMAIRE) ĐẦU TIÊN
Năm học 1950-1951 nhà trường chọn một số hoc sinh khá trong Cours Moyen 2 lập nên Cours Supérieur (lớp nhứt) để tham dự kỳ thi Primaire sẽ được tổ chức vào tháng bảy.
Bọn chúng tôi,sáu nam một nữ được Thầy Sòng chăm chút nhiều hơn. Khoa thi này được diễn ra từ ngày 2.7.51 (Session 02 Juillet 1951). Trước hom thi một ngày,chúng tôi phải khăn gói lên Dalat,ở tạm tại Hôtel Saigon trên đường Minh Mạng. Chiều hôm ấy,Thầy dẫn chúng tôi đi xem trường thi và tìm xem ai sẽ ngồi ở phòng nào. Địa điểm thi là trường nữ tức trường Đoàn Thị Điểm ngày nay. Sáng hom thi,thí sinh tập trung,trường tây trường ta lẫn lộn. Hoc sinh cac trường Taberd,Couvent des Oiseaux cũng như học sinh tại thành phố ăn mặc thật đẹp. Còn lũ chúng tôi,bọn học trò nhà quê trông có vẻ luộm thuộm,gà tồ…
Mỗi phòng thi có một giám thị chính người Pháp và một giám thị phụ người Việt. Phòng tôi gặp một cô giáo người Pháp. Rất may, cô đọc,nói thong thả,rõ ràng,không nuốt chữ nên chúng tôi rất tự tin. Kỳ thi ê-cri (thi écrit-thi viết) kéo dài đúng ba ngày rồi tạm dừng chờ kết quả. Sau khi có kết quả thi écrit chúng tôi lại phải trở lên Dalat lần nữa để thi ô-ran (thi orale-thi vấn đáp).
Trước đó,cac Thầy,Cô xem đề thi thấy khó quá nên chỉ mong sao đậu được ba bốn đứa là tốt rồi. Thế mà,một điều kỳ diệu đã xãy ra: Học sinh của Ecole de Dran thi đậu 100% (7/7)! Cả trường mừng vui không kể xiết,nhất là Thầy tôi,người đã bỏ công chăm sóc chúng tôi suốt mùa thi.
(còn tiếp)


Giáo viên trương Tiểu học Dran viếng thăm Quan Âm Học Hiệu - Người mặc Complet trắng , đứng giữa là thầy Sòng.



Thi Đệ nhất lục cá nguyệt :Vẽ bản đồ theo trí nhớ

Thi Đệ nhất lục cá nguyệt : Tập viết

Thế dục đồng diễn của nữ sinh trương Tiểu học Dran


DRAN XƯA (tt)



Ngược xuống Đông thì sao?
Từ ngã ba di dọc theo dường Lê Lợi,các bạn nhìn thấy những dãy phố cũ nát hai bên,từ Lễ Ký đến Tân Mỹ,từ Tư Lén đến Café Tín,nói chung những ngôi nhà xây ấy đều có chung một sở hữu chủ người Pháp là ông A-vi-a (Aviat)`,kể cả khu xưởng cưa,kho lương thực,nhà thương cũ. Aviat chiếm lĩnh gần hết vùng trung tâm. Riêng chỗ Trung Dung xưa là Ret-tô-rân – Ba Dăng-xinh (Restorant-Bar dancing)phục vụ cho người Pháp. Chủ nhân của nó là một viên sĩ quan tên Lorette. Cả vùng đất đó cho đến dầu đường Hai Bà Trưng cho đến sau rạp hát là trại gia cầm của ông ta. Đi đến cuối đường Lê Lợi,bên trái là chợ Lạc Nghiệp. Chợ Lạc Nghiệp không phải là chợ Dran. Chợ Dran rất nhỏ nằm đối diện với rạp chiếu bóng tức khu đất trước nhà ông Bảy Nóc mà giờ người ta thường gọi là khu chợ cũ.
Sở dĩ tôi kể về chợ Lac Nghiệp vì nó có câu chuyện hay hay. Là người Dran chắc bạn từng nghe câu vè:
Chùa (của) ông Dậu
Chợ (của) ông Danh
Xã (của) ông Thành
Gỗ xăng (của) ông Phú
Người ta nói vạy có lẽ thuận miệng cho vui thôi vì thấy nhân vật này quá gắn bó với sự việc kia chứ chùa làm sao là của riêng ông Dậu? Xã đâu thể nào là của ông Thành? Gỗ Xăng thì chắc chắn của ông Phú rồi vì ông là doanh nhân mà. Riêng chỡ ông Danh thì cần xem lại. Tất nhiên chợ không thể nào là của ông Danh nhưng nhờ có ông nên mới có chợ. Ông được coi như là người hiến kế để ông Tou-Prong-Hiou hiến đất xây chợ. Hiến đất xây chợ vừa được danh vừa có lợi tại sao không hiến? Ông Tou-Prong-Hiou hiến diện tích đất vừa đủ xây ngôi chợ nhưng được phân lô bán nền diện tích chung quanh.
Có lẽ nên phác họa đôi nét về nhân vật này. Ong T.P.Hiou là một địa chủ thực sự. Gần hết cánh đồng K3 là của ông. Ông cũng là mạnh thường quân có nhiều đóng góp cho Dran. Gia đình Tou Prong cùng với gia đình Hán Đăng ở Diom là hai gia dình người Thượng nhưng sống theo phong cách Âu tây. Nhắc đến nhà Tou Prong chắc chắn là phải nhắc đến các cô gái xinh đẹp Tou Prong Nay Thương,Tou Prong Nay Sương,Tou Prong Nay Annette…
Thôi,mình qua cầu Dran nhé!
Chiếc cầu này dược xây xong năm 1922. Cầu hẹp,đó là cầu cũ. Còn cầu hiện nay duoc công binh xây lại sau tran lụt 1970. Từ đầu cầu xuống đén ngã ba Đường Mới gọi là xóm Đường Dầu chứ chưa có tên là Đường Mới Ngoài như bây giờ. Phía bên phải là một sân vận động cực lớn. Đây là nơi tổ chức các lễ hội hằng năm như đá bóng,đua ngựa,đua xe đạp,thi điền kinh v.v…(chuyện bên lề: Trong một cuộc thi chạy cự ly 3000m có một vận động viên mang áo số 7. Anh ta chạy mới 2/3 đường thì đuối sức nên xẹt vào trong bụi rậm bên lề nằm thở dốc. Thế là đất Lạc Thiện có một nhân vật mang chết tên Bảy Xẹt).
Chúng ta đi tiếp nhé. Hết quảng đường dầu đền ngã ba Đường Mới mình nên rẽ phải để vào thăm Thác Hòa Bình. Thác Hòa Bình rất đẹp,tuy không hùng vĩ nhưng rất đặc biệt khi ta lội ngược dòng để chiêm ngưỡng vẻ đẹp thác chồng lên thác. Mình nghỉ chân ở đây một lúc. Tại sao lại có tên chùa Bà Xám? Bà Xám là một phụ nữ Việt có chồng người Pháp – ông Houiller. Tứ thời bát tiết,mỗi khi ra đường ông luôn mặc bộ complet màu xám. Dân địa phương cứ gọi là ông Xám cho tiện,lâu ngày thành tên. Bà Xám là người mộ đạo,bỏ tiền ra xây dựng ngôi chùa này nên mới gọi là chùa Bà Xám. Chùa có tên là Giác Nguyên nhưng chẳng mấy ai dùng tên này. Ngày nay,chùa Giác Nguyên được sửa sang,xây dựng thêm đồ sộ hơn,rực rỡ hơn nhưng đã mất đi cái không gian yên tĩnh,trầm mặc trước kia mà mỗi khi ai có tâm sự gì buồn,cứ lên chùa ngồi trước cổng tam quan lắng nghe tiếng chuông chùa nhẹ rơi,mắt nhìn về dòng Danhim lượn lờ trọi thì bao phiền muộn đều tan bién.
Bạn sinh ở Lâm Tuyền? Thế bạn có biết Bàu Nước ở đâu không? Xin thưa,Bàu Nước chính là Lâm Tuyền đó. Cuối Lâm Tuyền mình xuóng dốc La-Se (Lachaise).Tên dốc Lachaise chỉ có tứ khi ông Lachaise về cư ngụ ơ đây. Trước kia nó được gọi là Dốc Am Bà. Ở đây cây cối um tùm,rậm rạp,đường sá vắng tanh hiếm thấy bóng người,cảnh vật cứ rờn rợn. Bọn chúng tôi mỗi lần đi ngang đây,đứa nào cũng lấy ngón tay cái bấm đầu ngón áp út làm ấn Kiết Tường để….đuổi ma!
Thế là mình đã đến Suối Cát tức Phú Thuận . Xin nhắc rằng , trước năm 1955 không hề có nhưng địa danh như Lâm Tuyền , Phú Thuận ….Sứoi Cát còn gọi là Eo Gió , nếu muốn cho Tây hơn cũng có thể gọi là Ben-lờ-vuy (Bellevue) . Bellevuecũng là tên nhà ga xe lửa và và cả của con đèo từ Dran xuống Krôngpha . Đèo Bellevue quanh co trên 25 km được đổi thành đèo Ngoạn mục cũng sát nghĩa vô cùng . Thả xuống dốc quảng chừgn 9 km ta đến Ac-brơ-xec (Arbre Sec) –Cây Khô . Bót gác Cây Khô là chốt chặn cuối cùng , mình phải quay lại vì nếu thò chân sang bên kia là dẫm phải lỗ mũi của Ninh Thuận rồi.
Về phương Nam có gì ?
Lên hướng Nhà Thờ đường hẹp và hơi thiếu vệ sinh . Xuống hướng cầu thì nhà cửa san sát nên từ café Lễ Ký đến cầu Lạc Thiện có thể coi là đoạn đường đẹp nhất . Hai bên đường toàn dã quỳ . Đêm đến , trên quãng đường này là nơi hẹn hò của các đôi bạn , họ sóng vai nhau tỉ tê trò chuyện , đi đến cầu Lạc Thiện thì quay lại . Chỉ thế thôi mà có lúc nó được gọi bằng cái tên thơ mộng “Con đường tình ta đi” .

Bạn có để ý không , phía bên trái khi đến gần cuầ Lạc Thiện có xóm nhà ga , đó là ga Càn Rang . Không , phải gọi cho đúng là ga Cần Răng . Có lẽ hai chữ Cần Răng đọc nghe thô thô , cưng cứng thế nào ấy nên người ta đọc trại thành Càn Rang . Lạc Thiện là lãnh địa của Ô-gia-ri (Osari) ngừời Pháp . Hội trường Lạc Thiện bây giờ, , xưa vốn là chuồng bò của Osari . Tơi cây số 2 tức Cua Đá . Đoạn đường này nhiều cây côi to cao rậm rạp , tán cây che phủ hai bên . Đây là nơi đêm đêm lũ cọp thường ra rình rập . Rủ nhau đi bắn chim mà vào đến đây được xem là “ghê gớm” lắm . Qua Lạc Xuân mình đến La-bui (Labuye) . Đây là vùng của người dân tộc nhưng có một hộ người Kinh là ông Xu Nghĩa . Nhắc đến ông Xu Nghĩa không phải vì ông là dưỡng phụ của bà Dương Thị Kiêm(Cô giáo Kiêm) mà vì ông đã trồng dâu và chế biến thành loại rượu dâu được nhiều người ưa thích . Rượu ông làm ra không bán ngay mà phải lữu giữ một thời gian lâu mới bán . Vì thế rượu rất ngon . Một ly rượu dâu cho thêm đá vào chắc chắn đó là một thức uống tuyệt vời .

HỌA ĐỒ DRAN XƯA
Vùng Lạc Viên , Lạc Lâm , Lạc Sơn chỉ xuất hiện sau cuộc di cư 1954 . Trước đó , vùng này chỉ lau lách , rừng rậm . Thạnh Mỹ ngày nay công sở tòa ngang dãy dọc , đường xá thênh thang ,
đèn đêm rực sáng nhưng các bạn có biết M’Lon mới là tên cúng cơm của Thạnh Mỹ đó . Người ta thường gọi là Lọn cho nó gọn . M’Lon là của người dân tộc thiểu số , lưa thưa vài mươi hộ người Kinh . Dân ở đây , muốn mua sắm thứ gì thì phải ra Dran , còn trẻ em nếu có điều kiện đi học phải kiếm nhà quen để ăn ở trọ . Qua Fimnom rồi đến Liên Khương , còn gọi là Liên Khàng , nếu rẻ phải chạy một mạch thì đến Cội Gia hay La Ba . Xứ La Ba cho ta một giống chuối rất ngon mà mãi cho đến bây giờ nó vẫn giữ được thương hiệu : chuối La Ba . Trong các siêu thị ở Sài Gòn hiện nay chuối LaBa bán cao giá hơn các giống chuối khác .
Còn nếu chạy thẳng ta sẽ đến Gougah (Phú Hội) vì vùng Tùng Nghĩa
chỉ xuất hiện sau 1954 , nơi phần đông người tộc Thái sinh sống . Thác Gougah là một danh thắng nằm trong tour du lịch của Đà Lạt . Rời Phú Hội chạy thêm non chục km là Đại Ninh , nơi vừa xây xong một đập thủy điiện khá đẹp , nghe đâu trong tương lai đây sẽ là một điểm dừng chân mới cho du khách bốn phương . Đến đầu cầu Đại Ninh xin stop . Phương Nam dừng tại đây .Các bạn thấy Dran xưa rộng lớn đấy chứ ! Cũng nói thêm để các bạn biết , Dran xưa thuộc vùng đất Hoàng Triều Cương Thổ (Domaine de la Couronne ) . Người ở nơi khác đên phải có người địa phương bảo lãnh . Còn người ở Dran muốn đi xa phải xin giấy “ Laissez-Passez” (giấy thông hành)

Khu nhà thương nhìn từ chùa Giác Hoàng


Chùa Giác Hoàng xưa